Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

VIỆT NAM TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ VỚI CÁC ĐỐI TÁC Ở KHU VỰC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG: TỪ QUAN ĐIỂM ĐẾN THỰC TIỄN






Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực có diện tích trải gần nửa bề mặt trái đất với số dân vào khoảng 3,5 tỷ người và được coi là một điển hình về sự năng động trong phát triển, có ảnh hưởng to lớn đối với thế giới. Việt Nam là một quốc gia thuộc khu vực, vì thế, nhận thức đầy đủ và có quan điểm, chủ trương sát hợp trở thành yêu cầu chiến lược trong chính sách đối ngoại đối với khu vực của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
1. Nhận thức của Chính phủ Việt Nam về khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
Trong lịch sử cũng như từ khi bắt đầu từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới cho đến nay  (1986 - 2011), chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn là một trong những cơ sở bảo đảm và tạo điều kiện thuận lợi cho chính sách đối nội được thực hiện hiệu quả. 

Trong những định hướng đối ngoại lớn, quan trọng của Chính phủ Việt Nam đối với các khu vực khác nhau trên thế giới, Châu Á - Thái Bình Dương luôn chiếm giữ vị trí hàng đầu, được quan tâm đặc biệt, bởi vai trò chi phối đời sống kinh tế - thương mại, chính trị thế giới của khu vực này. Trong từng bước đi, Đảng luôn coi trọng công tác phân tích, dự báo tình hình của khu vực, để có nhận thức đúng đắn; từ đó, có đối sách thích hợp.
Suốt những năm tiến hành công cuộc đổi mới, trước nhiệm vụ cấp thiết phải đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trước yêu cầu phải có “những quyết sách xoay chuyển tình hình, tạo ra một bước ngoặt cho sự phát triển”[1] và đó phải là sự phát triển bền vững, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, qua các kỳ Đại hội, Chính phủ Việt Nam luôn có những phân tích, đánh giá cụ thể về tình hình Châu Á - Thái Bình Dương. Có thể khái quát trên những điểm chính sau: 1). Trong khu vực đang diễn ra những biến đổi quan trọng, là nơi phản ánh sự đối trọng, cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai lực lượng hòa bình và phản cách mạng[2], tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định[3]; 2). Quan hệ giữa các nước khác chế độ chính trị - xã hội trong khu vực có đặc điểm đấu tranh trong hình thái cùng tồn tại hòa bình[4]; 3). Đây là khu vực phát triển năng động với nhịp độ tăng trưởng cao[5].
Những phân tích, đánh giá trên đây của Đảng, Nhà nước Việt Nam về khu vực Châu Á - Thái Bình Dương xuyên suốt qua các giai đoạn khác nhau, mang tính nhất quán cao. Bên cạnh đó, vào những thời điểm cụ thể, Chính phủ Việt Nam cũng chú trọng làm rõ hơn một số vấn đề:
Thứ nhất, tại Đại hội lần thứ VIII (1996), khi phân tích về những thách thức đang đặt ra ở Châu Á - Thái Bình Dương, Đảng  Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ những bất ổn, những diễn biến phức tạp ở khu vực gắn với vấn đề Biển Đông[6].
Thứ hai, Đại hội lần thứ IX (2001) khẳng định rằng, dù khủng hoảng kinh tế thế giới đã để lại những hậu quả đáng lo ngại cho nhiều nền kinh tế mạnh, nhiều khu vực kinh tế, song tiềm năng của Châu Á - Thái Bình Dương là rất to lớn và sau khủng hoảng kinh tế - tài chính, khu vực này vẫn có “khả năng phát triển năng động”[7]. Không chỉ có vậy, Đảng Cộng Việt Nam cũng nhận thức rõ vai trò ngày càng lớn của Trung Quốc ở khu vực[8].
Thứ ba, Đại hội lần thứ X (2006) khẳng định sự gia tăng của xu thế hòa bình, hợp tác phát triển tại khu vực, làm rõ những nhân tố gây mất ổn định. Đó là sự “tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước, những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở một số nước”[9].
Thứ tư, Đại hội lần thứ XI (2011) chỉ rõ việc “hình thành nhiều hình thức hợp tác, liên kết đa dạng”[10], cũng như “các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới”[11] trong khu vực.
Như vậy, bên cạnh những nhận định tổng quát về những thuận lợi lớn của khu vực, Chính phủ Việt Nam cũng nhận rõ những nguy cơ tiềm ẩn liên quan tới vấn đề lãnh thổ, lãnh hải (Biển Đông), xác định nhân tố mới đang lên và chỉ ra các hình thức tập hợp, cân bằng lực lượng mới. Có thể thấy, đặt Châu Á - Thái Bình Dương trong quan hệ với thế giới, Việt Nam chú trọng phân tích hai lĩnh vực chủ yếu trong đời sống của khu vực: Kinh tế và chính trị. Những phân tích, nhận định về Châu Á - Thái Bình Dương của Chính phủ Việt Nam đã phản ánh sự vận động hai mặt, mang tính quy luật của khu vực. Đó cũng là những xu thế chính, cơ bản của thế giới, của thời đại ngày nay: Đấu tranh và hợp tác; ổn định và bất ổn; tiến bộ và phản tiến bộ... Điều đáng nói là hai mặt đan xen này nằm trong sự “thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường”[12]. Đặc điểm đó của Châu Á - Thái Bình Dương tác động đến mọi quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam: Một mặt, nó đòi hỏi các quốc gia phải tìm kiếm chính sách đối phó; mặt khác, buộc các quốc gia cần xích lại gần nhau, cùng phối hợp hành động[13]. Và trong sự vận động, biến đổi của khu vực, Việt Nam cần và phải nắm bắt được thuận lợi, cơ hội, vượt qua khó khăn, thách thức, tìm ra con đường hiệu quả hợp tác với các nước, các tổ chức khu vực.
2. Quan điểm của Chính phủ Việt Nam về tăng cường quan hệ với các đối tác ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
Việc nắm bắt đặc điểm của Châu Á - Thái Bình Dương với cả mặt thuận, không thuận và việc nhận diện sự đối lập, đấu tranh giữa hai xu thế nổi trội (hòa bình, hợp tác - đấu tranh, xung đột) trong khu vực trở thành cơ sở để Chính phủ Việt Nam xác định những định hướng đối ngoại quan trọng với tổng thể Châu Á - Thái Bình Dương và với các đối tác khác nhau của khu vực.
Hướng tới mục tiêu “tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”[14], về tổng thể, Việt Nam xác định phấn đấu đóng góp cho cuộc đấu tranh vì hòa bình và cách mạng, gìn giữ hòa bình ở Châu Á - Thái Bình Dương[15]. Đối với tất cả các nước trong khu vực, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, trên tinh thần “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi”, tôn trọng “nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” và “tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ”, Việt Nam chủ trương: “Phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á, Châu Á - Thái Bình Dương[16] (in nghiêng là TG nhấn mạnh). 
Trên đà phát triển của sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là trên cơ sở ngày càng nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò của Châu Á - Thái Bình Dương đối với thế giới và tác động của khu vực này tới Việt Nam, qua các kỳ Đại hội, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ với các nước, các đối tác ở khu vực tiếp tục những thay đổi theo hướng khách quan, mang tính thực tiễn. Từ “phát triển quan hệ hữu nghị” được xác định tại Đại hội lần thứ VII (1991), đến Đại hội lần thứ VIII (1996), nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quan hệ với các nước Châu Á - Thái Bình Dương được Chính phủ Việt Nam chủ trương tiến tới mức độ hợp tác cao hơn: “Hợp tác nhiều mặt song phương, đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực”[17]. Sau chặng đường 10 năm (1996- 2006), Đại hội lần thứ X (2006) nâng quan hệ với các đối tác thuộc Châu Á - Thái Bình Dương lên một bước cao hơn nữa: “Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả”[18], để phục vụ mục tiêu “mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Đặc biệt, Đại hội XI (2011) đã xác định hai điểm mới căn bản trong quan hệ với các nước Châu Á - Thái Bình Dương: 1). “Tăng cường quan hệ với các đối tác trong khuôn khổ hợp tác ở khu vực”[19]; 2). “Tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực” [20]. Hai điểm mới này cho thấy: Một là, các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương mà Việt Nam chú trọng tăng cường quan hệ đã được định vị, khu biệt hóa (các nước đối tác); hai là, khẳng định vai trò, vị thế của đất nước trong hợp tác khu vực, đó là vị thế ngày càng được nâng cao, được củng cố vững chắc, có tiếng nói trong những vấn đề ở khu vực, đặc biệt là ở Đông Nam Á - vị thế đó cho phép Việt Nam vừa có thể mở rộng các có quan hệ hợp tác đa phương, vừa có những đóng góp đáng kể cho khu vực.
Như vậy, sau 25 tiến hành công cuộc đổi mới, nắm bắt những biến đổi nhanh chóng trên thế giới và trong khu vực; đồng thời, dựa trên yêu cầu phát triển của đất nước, Đảng, Nhà nước Việt Nam xác định ngày càng rõ, càng sát với đòi hòi của thực tiễn mức độ, phạm vi quan hệ với các nước thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, dần nâng tầm quan hệ với các đối tác theo hướng không ngừng tăng cường, củng cố, đưa các quan hệ đó đi vào thực chất.
 3. Thực tiễn quan hệ của Việt Nam với các đối tác ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
Là một nước nhỏ, đang trên đà phát triển, có vị thế quốc tế ngày càng được củng cố, thực hiện những định hướng đối ngoại quan trọng đối với Châu Á - Thái Bình Dương, Chính phủ Việt Nam đã và đang triển khai các hoạt động đối ngoại sôi động trong khu vực. Các quan hệ  đối ngoại của Việt Nam đan cài nhiều nhiều tầng nấc, đa dạng, nhưng có trọng tâm.
Đối với các tổ chức khu vực như ASEAN, APEC, các quan hệ đối ngoại của Việt Nam liên tục có bước tiến mới. Việt Nam có nhiều đóng góp quan trọng thúc đẩy xây dựng Cộng đồng ASEAN, củng cố vai trò trung tâm của ASEAN trong các cấu trúc chính trị khu vực, thúc đẩy hợp tác mọi mặt nội khối và với các đối tác ngoại khối. Trên cương vị Chủ tịch ASEAN, Việt Nam góp phần thúc đẩy việc thực hiện Tuyên bố về ứng xử các bên trên Biển Đông (DOC), xử lý tốt một số vấn đề phức tạp nảy sinh trong và ngoài khu vực. Đặc biệt, trong vấn đề Biển Đông, cách tiếp cận của Việt Nam với tư cách là một thành viên tích cực của ASEAN đã đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng chung các nước trong tổ chức. một trong những đất nước gia nhập APEC muộn, nhưng Việt Nam đã chủ động đề xuất nhiều sáng kiến (gần 20 sáng kiến) tại các Hội nghị, Diễn đàn APEC; qua đó, tạo được uy tín, hình ảnh tốt đẹp với các thành viên về một đất nước năng động, mở cửa và hội nhập. Sự tham gia của Việt Nam vào các hoạt động hợp tác của APEC ngày càng đa dạng, tích cực, hiệu quả, tiếp tục phát huy vai trò và uy tín sau khi vừa tổ chức rất thành công Năm APEC 2006, Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ 14 (2006) tại Hà Nội và tổ chức thành công hai Hội thảo APEC về đối phó với lũ lụt bất thườngvề tự chứng nhận xuất xứ (tháng 7-2011 tại Đà NẵngHà Nội). Năm 2011, với chủ đề “Hướng tới một nền kinh tế khu vực liền khối”, ngày 12-11, Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 19 đã được tổ chức tại quần đảo Hawaii. Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị do Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dẫn đầu đã thể hiện nhất quán tinh thần tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế vì sự phát triển năng động, ổn định của đất nước. Hội nghị APEC lần thứ 19 tiếp tục mở ra khả năng để Việt Nam thúc đẩy quan hệ chính trị, thương mại, đầu tư với các đối tác, thực hiện nghĩa vụ là "thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế"[21], làm sâu đậm hơn quan hệ giữa Việt Nam với các thành viên APEC.
Đối với các nước lớn trong khu vực, Việt Nam đẩy mạnh quan hệ song phương với Liên bang Nga, Nhật Bản, Ấn Độ ở tầm “đối tác chiến lược”, riêng quan hệ với Trung Quốc là quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện. Với Hoa Kỳ, Việt Nam thúc đẩy quan hệ phát triển theo hướng “đối tác hữu nghị, tích cực, xây dựng, hợp tác nhiều mặt, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và hai bên cùng có lợi”, đang trên đà đưa quan hệ hai nước lên tầm đối tác và hợp tác mới, nhất là trong việc cùng chia sẻ lợi ích, duy trì ổn định, thịnh vượng ở châu Á-Thái Bình Dương.
Đối với các nước láng giềng trên bán đảo Đông Dương, quan hệ hữu nghị, đoàn kết giữa Việt Nam với Lào, Campuchia tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Chính sách trước sau như một của Việt Nam luôn đặc biệt coi trọng, dành ưu tiên cao cho việc củng cố, tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết gắn bó keo sơn giữa ba dân tộc anh em. Quan hệ Việt – Lào là quan hệ đặc biệt, hợp tác toàn diện, lâu dài, là tài sản vô giá của hai dân tộc. Quan hệ Việt Nam – Cam-pu-chia không ngừng được củng cố và phát triển theo phương châm “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”.
*                        *
*
Nhìn một cách tổng quát, từ nhận thức, quan điểm cho đến thực tiễn, Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Quan hệ với các đối tác trong khu vực là những quan hệ mật thiết, trọng điểm, được Đảng, Nhà nước Việt Nam xử lý phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của từng mối quan hệ và trong tổng thể, phù hợp với xu thế chung.
Hiện nay, tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, tình hình đang có những diễn biến mới, hết sức phức tạp với những vấn đề xung đột cục bộ, tranh chấp biên giới, lãnh thổ, tài nguyên… Là nơi hội tụ nhiều cường quốc của thế giới với mâu thuẫn, lợi ích chồng chéo, trong những thập niên tới, châu Á - Thái Bình Dương vẫn là khu vực có tác động, ảnh hưởng quan trọng đối với thế giới và trực tiếp đối với mỗi nước trong khu vực. Tuy nhiên, với những nhận thức, phân tích, dự báo về khu vực, sự chủ động trong triển khai các quan hệ đối ngoại trên con đường hội nhập, với những thành tựu đối ngoại quan trọng, với một một vị thế mới ngày càng được củng cố, Việt Nam hoàn toàn có thể bước đi trong khu vực, hội nhập sâu rộng, toàn diện với khu vực, hoàn thành các chiến lược đối ngoại, thực hiện thành công mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ với mục tiêu được xác định:Xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”[22].

Download toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC

[1]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H, 1987, tr. 33
[2]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr. 37.
[3]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. CTQG, H, 1996, tr. 17.
[4]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr. 37.
[5]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr. 17.
[6]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr. 79.
[7]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H, 2001, tr. 14.
[8]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Sđd, tr. 158.
[9]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H, 2006, tr. 74.
[10]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H, 2011, tr. 96.
[11]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 319.
[12]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 95.
[13]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 96.
[14]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr. 99.
[15]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr. 224.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr. 147.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr. 120.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr. 114.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 47.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 237
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, sđd, tr. 139.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 71





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!