Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Ngày 9-8-1945, sau khi giành thắng lợi hoàn toàn trước quân Đức, Hồng
quân Liên Xô bắt đầu tiến công quân Nhật. Trong vòng không đầy một tuần lễ, quân
đội Liên Xô đánh tan gần một triệu quân Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc), buộc Nhật
đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh không điều kiện, chấm dứt Chiến tranh thế giới lần
thứ hai[1].
Việc gần một triệu quân Quan Đông thiện chiến nhất của Nhật bị tiêu diệt đã tác
động mạnh đến tinh thần quân Nhật ở Đông Dương. Điều kiện khách quan cho cuộc
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền của nhân dân Việt Nam đã hoàn toàn chín
muồi, "thời cơ ngàn năm có một" đã đến, nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1945),
giành chính quyền từ tay Nhật, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
1- Nhà nước Việt Nam độc lập vừa mới ra đời đã phải đương đầu với những
thách thức tồn vong, ở trong tình thế không đồng minh, không tiền và hầu như
không có vũ khí. Trong tình thế đó, Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương: "Củng cố chính quyền, dùng
chính trị, ngoại giao, vũ khí cần thiết, đến dùng quân sự để giữ vững nền
độc lập"[2]. Trên tinh thần ấy, Việt Nam tìm mọi cách liên lạc với Liên Xô. Ngày 22-9-1945- 20 ngày sau
khi Việt Nam tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mật điện cho I.V. Stalin (qua Đại sứ Liên Xô A.E.Bogomolov tại Pháp), thông báo về sự ra đời của
Chính phủ cách mạng ở Việt Nam: “Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà đã được thành lập dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh”[3]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Liên Xô giúp đỡ, vì Chính phủ mới ra đời
phải đối mặt với những thách thức, khó khăn to lớn do thiên tai ngập lụt gây
nên. Tuy nhiên, bức công điện đã không nhận được sự trả lời. I.V. Bukharkin[4] giải thích lý do
của sự im lặng này như sau: “Có lẽ bức điện được ký bằng một cái tên mới đối
với Moscow, bởi cách viết tiếng Nga họ tên vị lãnh tụ của Việt Nam lúc đó không
giống với cách viết hiện tại. Ban đầu người ta gọi ông hoặc là Hôts Hi Ming, hoặc là Hồ Trí Minh”[5].
Mátxcơva tiếp nhận điện khẩn của người đứng đầu Việt Nam một cách dè dặt, có
thể, do thiếu thông tin.
Bức mật
điện đầu tiên Liên Xô nhận
được từ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (22-9-1945)
Kính
gửi đồng chí Stalin. Moscow.
Chúng tôi xin thông báo với Ngài
rằng Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa được thành lập với Chủ tịch là Hồ Chí Minh. Ngày 25 – 8,
Hoàng đế Bảo Đại thoái vị và chuyển giao chính quyền cho Chính phủ mới được
toàn dân ủng hộ.
Trong khi đó, do hệ thống đê điều bị
phá vỡ, một nửa Bắc Bộ bị ngập lụt, gây thiệt hại to lớn, dân bắt đầu
chết đói. Chúng tôi xin Ngài giúp đỡ ở mức độ có thể.
Trân trọng. Hồ Chí Minh
Nguồn: Архив внешней политики
Российской Федерации (АВП РФ), ф. 0136,
оп. 29, п.197, д. 31, л.187.
|
Ngày 21-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam gửi
tới Chính phủ Liên Xô bức công hàm chính thức, lên án mạnh mẽ chính sách phản
động, nhu nhược, đầu hàng phát xít Nhật của thực dân Pháp trong Chiến tranh thế
giới thứ hai và âm mưu tái chiếm Đông Dương của thực dân Pháp. Thay mặt nhân
dân Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định ý chí quyết tâm đứng lên chống lại thực
dân Pháp và bày tỏ “nguyện vọng hợp tác với Liên hợp quốc trong việc thiết lập
hòa bình lâu dài trên toàn thế giới”[6]. Nhận được bức công hàm, Phó
Chủ tịch Ban đối ngoại Liên Xô V.G.Decanodov viết vài chữ lên bức điện:
"Gửi đồng chí Codưrev[7].
Làm thế nào với bức điện này? V.G, 25/10/54". X.P. Codưrev đề nghị
"không hồi âm", V.G.Decanodov không phản đối, thế là bức công điện
hỏa tốc trên phương diện nhà nước của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
bị đưa vào kho lưu trữ[8]
- cùng chung số phận với bức công điện ngày
22-9-1945.
Công hàm chính thức
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi Chính phủ Liên Xô (20-10-1945)
Kính
gửi đồng chí Stalin. Moscow.
Về tình hình ở An Nam, tôi đề
nghị Ngài lưu ý các vấn đề sau đây:
1. Khi Nhật tiến vào Đông Dương, từ
tháng 9-1940 đến tháng 9-1941, nước Pháp theo Nghị định thư tháng 7-1941 và
Hiệp ước quân sự bí mật ngày 8-12-1941 đã từ bỏ chủ quyền của mình ở Đông
Dương và giữ lập trường chống lại các nước Đồng Minh.
Trong cuộc bạo động của Nhật ngày
9-3-1945, người Pháp đã bỏ chạy hoặc đầu hàng người Nhật, hủy bỏ tất cả các
mối quan hệ hành chính và pháp lý với nhân dân Đông Dương, đi ngược lại những
cam kết bảo vệ Đông Dương theo các Hiệp định ký tháng 3-1874 và tháng 7-1884.
Ngày 19-8-1945 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Sau khi Nhật
đầu hàng, Chính phủ Lâm thời Việt Nam, với tư cách một Chính phủ độc lập, thể
theo Hiến chương Đại Tây Dương và Nghị quyết Xan-Phranxiscô bắt đầu thực hiện
tái thiết đất nước, nhưng người Pháp cố tình xem thường mọi hiệp định hòa
bình do Liên hợp quốc ký kết cuối Đại chiến Thứ hai, đã tấn công vào Sài Gòn
ngày 23-9-1945 và âm mưu thực hiện một cuộc chiến tranh xâm lược chống lại An
Nam.
2. Nhân dân An Nam có nguyện vọng
hợp tác với Liên hợp quốc trong việc thiết lập hòa bình lâu dài trên toàn thế
giới. Đã phải chịu nhiều đau khổ do sự cấu kết giữa Pháp với Nhật, nên nhân
dân An Nam nhất quyết không để cho người Pháp quay trở lại. Nếu quân đội Pháp
từ Trung Quốc, nơi họ rút chạy trong thời kỳ Nhật chiếm Đông Dương, hoặc từ
những nơi khác tấn công vào bất kỳ nơi nào ở Đông Dương, hoặc trên lãnh thổ
An Nam, nhân dân An Nam quyết chiến đấu chống lại họ trong mọi hoàn cảnh.
3. Nếu ở Đông Dương bắt đầu một cuộc
đổ máu hoặc toàn dân khởi nghĩa do những nguyên nhân nêu trong mục 2, thì chỉ
có người Pháp phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước thế giới.
Trân trọng. Hồ Chí Minh
Nguồn:
АВП РФ, ф.
0136, оп. 29, п.197, д.
31, л.188-189.
|
Liên tiếp từ tháng 9 đến tháng 10-1945, từ Paris, những bức điện khẩn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh liên tục được chuyển tới Moscow. Theo I.V. Bukharkin, “Mátxcơva tiếp nhận những
bức điện khẩn của lãnh đạo Việt Nam với thái độ khá dè dặt”[9]. Christopher
E. Goscha lý giải nguyên nhân của thái độ đó là bởi, dù A.E. Bogomolov, khi đó
đang làm Đại sứ Liên Xô tại Paris, người có ít nhiều hiểu biết về Đông Dương có
quan điểm giải quyết vấn đề Đông Dương bằng cách giành cho Đông Dương quyền độc
lập dưới sự bảo hộ của Uỷ ban An ninh Quốc tế (gồm Mỹ, Anh, Liên Xô, Pháp và
Trung Quốc), song “đề xuất này không thuận tai với những người coi thế cuộc
châu Âu là mối quan tâm ưu tiên hơn. Stalin chắc sẽ không đi nước cờ đòi độc
lập cho Việt Nam để chuốc lấy nguy cơ phải hy sinh một số quyền lợi của Liên Xô
trên đất Pháp”[10].
Christopher E. Goscha kết luận: “Như vậy, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
dù phải hay không phải của những người cộng sản, cũng không giành được vị trí
đáng quan tâm đối với Mátxcơva tại thời điểm sau
chiến tranh thế giới thứ hai; ngược lại, nước Pháp, nơi Đảng Cộng sản là một
lực lượng quan trọng ở chính trường quốc gia, mới thật sự là một ưu tiên”[11].
2- Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, thời gian đầu, thông tin về các
sự kiện ở Việt Nam đến Mátxcơva qua ngả Paris. Từ năm 1946 trở đi, Mátxcơva
thiết lập những kênh liên lạc riêng để tiếp nhận tin tức về Việt Nam.
Tháng 10-1946, một Phái bộ Xô viết đã đến Sài Gòn, đứng đầu là Đại tá Dubrovin[12]. Về
chính thống, nhiệm vụ của Phái bộ là tổ chức hồi hương các tù binh và những
người xuất thân từ Liên Xô đang hiện diện ở Đông Dương tại thời điểm đó, tuy
nhiên, một thành viên của phái đoàn đã bí mật đến dự cuộc họp của những người
cộng sản tại Chợ Lớn. Phát biểu tại cuộc họp, phái viên này nói rằng mục đích
thực sự của phái đoàn là nhằm nắm bắt tình hình và tâm trạng của các tầng lớp
cư dân xứ Đông Dương, chuẩn bị cho việc trong tương lai gần sẽ mở tại Việt Nam
một cơ quan đại diện ngoại giao của Liên Xô. Thế nhưng, Phái đoàn Xô viết đã
không bắt liên lạc với Chính phủ Hồ Chí Minh[13].
Từ năm 1947 đến năm 1948, bắt đầu những tiếp xúc bí mật của Liên Xô với
đại diện chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Thailand và Paris. Tháng
9-1948, tại Thụy Sĩ, diễn ra cuộc gặp gỡ giữa phái viên Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa Phạm Ngọc Thạch với Đại
sứ Liên Xô Kolaichenkov. Tại cuộc gặp, Phạm Ngọc Thạch trình bày với Đại sứ
Kolaichenkov về tìn hình cuộc chiến tranh Pháp-Việt, về cách mạng ở Đông Nam Á
, về các vấn đề của cách mạng Việt Nam… Phạm Ngọc Thạch khẳng định Đảng Cộng
sản Đông Dương là một lực lượng rất mạnh ở Việt Nam, hiện có khoảng một trăm
ngàn đảng viên các cấp; đồng thời, giải thích về quyết định giải tán Đảng nhằm
tránh gây nghi ngờ cho phía Mỹ, thông báo vắn tắt về tình hình cách mạng ở Đông
Nam Á và vai trò tiên phong của Việt Nam trên mặt trận đấu tranh chống đế quốc.
Chuyển sang các vấn đề khu vực và quốc tế, Phạm Ngọc Thạch giải thích rằng,
trong thời điểm hiện tại, người Mỹ tỏ ra khá trung lập, đôi khi nghiêng về phía
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong cuộc kháng chiến chống thực dân. Phạm Ngọc
Thạch phân tích về chiến lược của Mỹ như sau: “Mỹ muốn mở rộng tầm ảnh hưởng ra
toàn bộ khu vực Đông Nam Á bằng cách đưa hàng hoá vào tràn ngập khu vực, đồng
thời tạo ấn tượng là họ ủng hộ phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân”[14].
Nhìn chung, trong các cuộc tiếp xúc, hai bên chủ yếu thăm dò, tìm hiểu
lẫn nhau. Mátxcơva tìm cách xác minh xem ai là người lãnh đạo phong trào giải
phóng dân tộc ở Đông Dương và ban lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gắn bó với
hệ tư tưởng cộng sản sâu sắc đến đâu, còn Việt Nam cố gắng tranh thủ viện trợ
quân sự và tài chính từ Liên Xô. Đại diện Liên Xô thường xuyên nhắn nhủ để Việt
Nam hiểu rằng, chỉ sau chuyến thăm tới Mátxcơva của một trong những nhà lãnh đạo
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hoặc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương, mới có thể tổ chức những cuộc đàm phán thực chất.
Tháng 12-1947, Phạm Ngọc Thạch gửi đến Đảng Cộng sản Liên Xô Báo cáo “Về tình hình Đảng Cộng sản Đông Dương”,
trong đó có đoạn viết: “Chúng
tôi đề nghị các đồng chí Xô viết quan tâm hơn đến Việt Nam. Từ trước đến nay,
Việt Nam hoàn toàn đơn độc trong cuộc kháng chiến. Báo cáo của đồng chí Jdanov[15]
có đề cập đến Việt Nam cho phép chúng tôi hy vọng các đồng chí Liên Xô đã hiểu
được tầm quan trọng của cuộc kháng chiến chống đế quốc trên đất nước chúng tôi,
đồng thời cũng là cửa ngõ của Đông Nam Á. Thắng lợi của cuộc kháng chiến ở Việt
Nam và Indonesia sẽ thể hiện sức mạnh của thành trì chống đế quốc ở châu Á.
Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á có Đảng cộng sản nắm được thực quyền”[16].
Liên Xô không có phản hồi tích cực, nhất là trong so sánh với Chính phủ Cộng
hoà Indonesia non trẻ. Mặc dù cũng giống như đối với Việt Nam, Liên Xô khá thận
trọng trước những bức điện của Chủ tịch Soekarno, song những năm 1945 -1948,
chính sách ngoại giao của Liên Xô ngày càng thiên về ủng hộ cuộc kháng chiến
của Indonesia chống lại Hà Lan hơn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của
Việt Nam và đầu năm 1948, Liên Xô công nhận thực tế (de facto) và thiết
lập ngoại giao cấp lãnh sự với Cộng hoà Indonesia (trong khi Việt Nam còn đang
chật vật tranh thủ sự thừa nhận của Liên Xô). Đến năm 1948, sự liên hệ của Việt Nam với Liên Xô, ảnh hưởng của Liên Xô
đối với Việt Nam khá mờ nhạt. Báo cáo
của Văn phòng Nghiên cứu tình báo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
cung cấp thêm một căn cứ cho nhận định trên: “Người Mỹ vẫn
không chắc chắn rằng Hồ Chí Minh và Việt Minh đã liên minh với Điện Kremlin
(....) Bộ Ngoại giao không có bằng chứng nào về sự liên hệ trực tiếp giữa Hồ
Chí Minh và Mátxcơva (...) cũng không thể đánh giá mức độ ảnh hưởng hay vai trò
chỉ đạo mà Mátxcơva đang áp đặt lên Hồ Chí Minh”[17].
Sau một cuộc khảo sát về ảnh hưởng của cộng sản ở Đông
Nam Á, Văn phòng Nghiên cứu tình báo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ kết luận rằng, “âm
mưu đạo diễn của Kremlin đã được tìm thấy trong hầu như tất cả các nước ngoại
trừ Việt Nam”[18].
Báo cáo của Văn
phòng Nghiên cứu tình báo
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
Cho đến nay, báo đài Việt Nam không tỏ ra chống Hoa
Kỳ. Trong khi ấy báo chí Pháp ở các thuộc địa lại quay ra chống Mỹ một cách mạnh
mẽ, thoải mái tố Hoa Kỳ là đế quốc ở Đông Dương tới mức tưởng chừng như Mỹ được
xếp hạng cùng tần số với Moscow. Mặc dù truyền thông Việt Nam theo dõi chặt
chẽ thái độ của Hoa Kỳ nhưng cho đến nay vẫn chưa có gì thay đổi. Cũng không
thấy có sự rạn nứt trong Chính phủ liên hiệp Việt Minh của Việt Nam …
Đánh giá: Nếu Mátxcơva có âm mưu can thiệp vào khu vực Đông Nam Á thì tình
hình đó ở Đông Dương là một sự bất thường cho đến nay. Có thể giải thích như
sau:
1. Không có chỉ thị cứng nhắc được ban hành bởi
Moscow.
2. Chính phủ Việt Nam cho rằng nó không có thành phần
thuộc cánh hữu cần phải được thanh lọc.
3. Cộng sản Việt Nam không có lợi ích gì để theo đuổi
các chính sách đối ngoại của Moscow.
4. Một sự miễn trừ đặc biệt nào đó đã được Mátxcơva
dành cho Chính phủ Việt Nam.
Trong khả năng trên, khả năng đầu tiên và thứ tư dường
như là rất có thể.
Nguồn: The Pentagon Papers Gravel Edition, Volume 1, Chapter
I, "Background to the Crisis, 1940-50", pp. 1-52.
|
3- Như vậy, cho đến năm 1954, thái độ của Liên Xô đối với Việt Nam khá
thận trọng, quan hệ Việt Nam – Liên Xô “thân không gần, xa không lạnh”. Lý giải
về sự xa cách trong quan hệ Việt – Xô giai đoạn này, nhà sử học I.A. Koroneva
cho rằng, “Việt Nam và Đông Dương chưa phải là mối quan tâm thực sự của Liên Xô
bởi vị trí địa lý xa xôi của nó”[19]; đồng thời, tin tức về Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với
Mátxcơva chậm chạp, không được đầy đủ. Do vậy, trước những bức công điện của Hồ Chí Minh gửi năm 1945, Liên Xô
đã không mấy mặn mà trả lời. Ngoài việc chưa thực sự tin ở cách mạng Việt Nam,
sự nghi ngại Hồ Chí Minh không phải người cộng sản, mà là một nhà dân tộc chủ
nghĩa vẫn chưa được gạt bỏ hoàn toàn[20] đã cản trở người đứng đầu Nhà nước Liên Xô có những động thái mạnh mẽ
xích gần Việt Nam – quốc gia tiền đồn của phe dân chủ ở Đông Nam Á[21]. Ngoài những nguyên nhân đã liệt kê, nhà nghiên cứu I.A. Koroneva nhấn
mạnh nguyên nhân chính, chủ yếu nhất là ở chỗ Liên Xô “không muốn đụng chạm đến
quyền lợi của Pháp ở Đông Dương”[22].
Ngoài ra, ít tháng trước khi cách mạng Trung Quốc thành công, Lưu Thiếu
Kỳ đã có một vài chuyến đi bí mật tới Liên Xô. Tại cuộc hội đàm với Lưu Thiếu
Kỳ (7-1949), I.V.Stalin nhiệt thành khuyến khích Trung Quốc
có một vai trò lớn hơn đối
với việc thúc đẩy làn sóng cách mạng ở
Đông Nam Á[23]. Trong cuộc hội đàm tháng 8-1949, khi thảo luận về
sự cần thiết phải tiến hành "cách mạng thế giới", nhất trí cao về vị
trí trung tâm cách mạng của Liên Xô, Lưu Thiếu Kỳ và I.V.Stalin đã thỏa thuận vai trò đầu
tàu đối với cách mạng phương Đông của Trung Quốc[24]. Nhà nghiên cứu M.M.Ilinski cho biết thêm: Trong cuộc gặp gỡ với Mao
Trạch Đông vào tháng 12-1949, nhân bàn đến vấn đề Việt Nam, I.V.Stalin tuyên bố: "Các đồng chí hãy tự quyết định lấy
mọi việc! Về phía chúng tôi, nếu cần, chúng tôi sẽ ủng hộ và giúp đỡ. Có điều,
hãy thông báo tình hình thường xuyên!"[25].
Biên bản Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 17-3-1950 minh chứng
thêm cho thông tin của M.M.Ilinski: Liên Xô đồng ý để "Trung Quốc đại diện cho quyền lợi của mình tại
Việt Nam"[26]. Như
vậy, sau
Chiến tranh thế giới thứ 2, có vị trí, vai trò trong quan trọng trên trường
quốc tế, về đối ngoại, Liên Xô tập trung ưu tiên củng cố vành đai an ninh tại
vùng biên giới phía Tây, duy trì hòa hoãn với các nước lớn để giải quyết các
vấn đề do chiến tranh để lại, ưu tiên củng cố khu vực ảnh hưởng truyền thống –
vòng cung Đông Âu, tranh thủ nước Pháp để Pháp không tham gia tổ chức quân sự
do Mỹ lập ra ở châu Âu. Trong bối cảnh đó, Việt Nam chưa phải là mối quan tâm
của Liên Xô.
Download
toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC
[1]Tháng 8-1945,
quân đội Nhật ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương vẫn còn đông tới khoảng 7
triệu người, với 10.000 máy bay, 500 tàu chiến, trong khi quân Đồng Minh chỉ có
khoảng 1,8 triệu người và 5.000 máy bay. Nếu như Liên Xô không tham chiến với
quân Nhật, cuộc chiến tranh sẽ có thể kéo dài lâu hơn nữa.
[2]Đảng Cộng sản
Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2000, tr. 6.
[4]Phó Giám đốc
Ban Tư liệu - Lịch sử, Bộ Ngoại giao Nga, Chủ tịch Hiệp hội "Lưu trữ Ngoại giao" Quốc
tế.
[10]Christopher E.
Goscha: “Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Integration of
Vietnam into the Internationalist Communist Movement (1945–1950)”, Journal
of Vietnamese Studies, Berkeley 11-2006.
[11]Christopher E.
Goscha: “Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Integration of
Vietnam into the Internationalist Communist Movement (1945–1950)”, Ibid.
[12]L.A. Patti cung
cấp một thông tin tương tự, nhưng tên người đứng đầu Phái bộ là Stephanne
Solosief: “Không giống người Pháp bị tổn thương đang đi tìm kiếm sự đền bù,
hoặc người Nhật bại trận với sự kìm chế những suy nghĩ thầm kín của họ đằng sau
những bộ mặt nghiêm nghị, hay người Việt Nam đang ra sức tranh thủ để được thừa
nhận; Solosieff đến như một người chiến thắng, một đồng minh, một người bạn. Ông
ta tự giới thiệu là người liên lạc của Xô Viết với các cơ quan chính trị của
Nhật ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn; có trách nhiệm chăm lo đến các quyền lợi của các
công dân Xô Viết ở Đông Dương mà theo ông thì có tới 5 hay 6 ngàn người”
(Nguồn: L.A.Patti: Tại sao Việt Nam? Nxb. Đà Nẵng, 1995, tr. 188-189.
[14] Christopher E.
Goscha: “Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Integration of
Vietnam into the Internationalist Communist Movement (1945–1950)”, Ibid.
[15] Tháng 9-1947,
theo sáng kiến của Đảng Cộng sản Liên Xô, tại Vacxava Hội nghị đại biểu các
Đảng Cộng sản Liên Xô, Bungari, Hunggari, Ba Lan, Rumani, Tiệp Khắc, Nam Tư,
Pháp và Italia được tổ chức. Tại Hội nghị, Trưởng đoàn đại biểu Liên Xô A.
Jdanov trình bày bản báo cáo nhan đề “Thế giới sau chiến tranh”, phân
tích tình hình thế giới, đánh giá so sánh lực lượng trên thế giới và xác định
những nhiệm vụ cơ bản của các Đảng Cộng sản.
[16]Dẫn theo Christopher E. Goscha: “De T. Chouklin à Pouklov: Compte-rendu
sur la situation du Parti au Vietnam,” dated December 15, 1947, no. 619,
document 4, fonds no. 5, opus 10, dossier 404, Centre russe de conservation et
d’études des documents de l’Histoire moderne.
[17]The Pentagon Papers
Gravel Edition, Volume 1, Chapter I,
"Background to the Crisis, 1940-50", pp. 1-52.
[19]И.А.Конорева:
“Геополитические интересы СССР и США в Юго-Восточной Азии в контексте Первой
индокитайской войны (середина 40-х – начало 50-х годов ХХ в)”, Жур. Ученые
записки Курского государственного университета, №1, 2008, C. 99.
Вестник
архивиста, № 2, 2010, C.10.
[21] Có ba vấn đề
liên quan đến Việt Nam luôn được đặt thành câu hỏi đối với Liên Xô: 1- Đảng
Cộng sản Đông Dương tự giải tán; 2- Chậm làm cách mạng ruộng đất; 3 -Việt Nam
tranh thủ Mỹ. Việc Hồ Chí Minh quyết định giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương và
tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ.
[22]И.А. Конорева:
“Геополитические интересы СССР и США в Юго-Восточной Азии в контексте Первой
индокитайской войны (середина 40-х – начало 50-х годов ХХ в)”, Указ. Соч, №1, C. 100.
[23] Chen
Jian:"The Sino-Soviet alliance and China's entry into the Korean
War", Washington, D.C.: The Cold War International History Prọịect of
the Woodrow Wilson International Center for Scholars, December 1991, p. 12.
[24] Chen Jian: China's
Road to the Korean War: The Making of the Sino-American Confrontation, New
York, Columbia University Press, 1994, pp.74-75.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!