Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN XÔ NHỮNG NĂM ĐẦU SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM





Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Ngày 9-8-1945, sau khi giành thắng lợi hoàn toàn trước quân Đức, Hồng quân Liên Xô bắt đầu tiến công quân Nhật. Trong vòng không đầy một tuần lễ, quân đội Liên Xô đánh tan gần một triệu quân Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc), buộc Nhật đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh không điều kiện, chấm dứt Chiến tranh thế giới lần thứ hai[1]. Việc gần một triệu quân Quan Đông thiện chiến nhất của Nhật bị tiêu diệt đã tác động mạnh đến tinh thần quân Nhật ở Đông Dương. Điều kiện khách quan cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền của nhân dân Việt Nam đã hoàn toàn chín muồi, "thời cơ ngàn năm có một" đã đến, nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1945), giành chính quyền từ tay Nhật, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
1- Nhà nước Việt Nam độc lập vừa mới ra đời đã phải đương đầu với những thách thức tồn vong, ở trong tình thế không đồng minh, không tiền và hầu như không có vũ khí. Trong tình thế đó, Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương: "Củng cố chính quyền, dùng chính trị, ngoại giao, vũ khí cần thiết, đến dùng quân sự để giữ vững nền độc lập"[2]. Trên tinh thần ấy, Việt Nam tìm mọi cách liên lạc với Liên Xô. Ngày 22-9-1945- 20 ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mật điện cho I.V. Stalin (qua Đại sứ Liên Xô A.E.Bogomolov tại Pháp), thông báo về sự ra đời của Chính phủ cách mạng ở Việt Nam: “Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã được thành lập dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh”[3]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Liên Xô giúp đỡ, vì Chính phủ mới ra đời phải đối mặt với những thách thức, khó khăn to lớn do thiên tai ngập lụt gây nên. Tuy nhiên, bức công điện đã không nhận được sự trả lời. I.V. Bukharkin[4] giải thích lý do của sự im lặng này như sau: “Có lẽ bức điện được ký bằng một cái tên mới đối với Moscow, bởi cách viết tiếng Nga họ tên vị lãnh tụ của Việt Nam lúc đó không giống với cách viết hiện tại. Ban đầu người ta gọi ông hoặc là Hôts Hi Ming, hoặc là Hồ Trí Minh[5]. Mátxcơva tiếp nhận điện khẩn của người đứng đầu Việt Nam một cách dè dặt, có thể, do thiếu thông tin.

Bức mật điện đầu tiên Liên Xô nhận được từ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (22-9-1945)
Kính gửi đồng chí Stalin. Moscow.
Chúng tôi xin thông báo với Ngài rằng Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân  chủ Cộng hòa được thành lập với Chủ tịch là Hồ Chí Minh. Ngày 25 – 8, Hoàng đế Bảo Đại thoái vị và chuyển giao chính quyền cho Chính phủ mới được toàn dân ủng hộ.
Trong khi đó, do hệ thống đê điều bị phá vỡ, một nửa Bắc Bộ bị  ngập lụt, gây thiệt hại to lớn, dân bắt đầu chết đói. Chúng tôi xin Ngài giúp đỡ  ở mức độ có thể.
Trân trọng. Hồ Chí Minh
Nguồn: Архив внешней политики Российской Федерации (АВП РФ), ф. 0136, оп. 29, п.197, д. 31, л.187.

Ngày 21-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam gửi tới Chính phủ Liên Xô bức công hàm chính thức, lên án mạnh mẽ chính sách phản động, nhu nhược, đầu hàng phát xít Nhật của thực dân Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai và âm mưu tái chiếm Đông Dương của thực dân Pháp. Thay mặt nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định ý chí quyết tâm đứng lên chống lại thực dân Pháp và bày tỏ “nguyện vọng hợp tác với Liên hợp quốc trong việc thiết lập hòa bình lâu dài trên toàn thế giới”[6]. Nhận được bức công hàm, Phó Chủ tịch Ban đối ngoại Liên Xô V.G.Decanodov viết vài chữ lên bức điện: "Gửi đồng chí Codưrev[7]. Làm thế nào với bức điện này? V.G, 25/10/54". X.P. Codưrev đề nghị "không hồi âm", V.G.Decanodov không phản đối, thế là bức công điện hỏa tốc trên phương diện nhà nước của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị đưa vào kho lưu trữ[8] - cùng chung số phận với bức công điện ngày 22-9-1945.



Công hàm chính thức Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi Chính phủ Liên Xô (20-10-1945)
Kính gửi đồng chí Stalin. Moscow.
Về tình hình ở An Nam, tôi đề nghị Ngài lưu ý các vấn đề sau đây:
1. Khi Nhật tiến vào Đông Dương, từ tháng 9-1940 đến tháng 9-1941, nước Pháp theo Nghị định thư tháng 7-1941 và Hiệp ước quân sự bí mật ngày 8-12-1941 đã từ bỏ chủ quyền của mình ở Đông Dương và giữ lập trường chống lại các nước Đồng Minh.
Trong cuộc bạo động của Nhật ngày 9-3-1945, người Pháp đã bỏ chạy hoặc đầu hàng người Nhật, hủy bỏ tất cả các mối quan hệ hành chính và pháp lý với nhân dân Đông Dương, đi ngược lại những cam kết bảo vệ Đông Dương theo các Hiệp định ký tháng 3-1874 và tháng 7-1884. Ngày 19-8-1945 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Sau khi Nhật đầu hàng, Chính phủ Lâm thời Việt Nam, với tư cách một Chính phủ độc lập, thể theo Hiến chương Đại Tây Dương và Nghị quyết Xan-Phranxiscô bắt đầu thực hiện tái thiết đất nước, nhưng người Pháp cố tình xem thường mọi hiệp định hòa bình do Liên hợp quốc ký kết cuối Đại chiến Thứ hai, đã tấn công vào Sài Gòn ngày 23-9-1945 và âm mưu thực hiện một cuộc chiến tranh xâm lược chống lại An Nam.
2. Nhân dân An Nam có nguyện vọng hợp tác với Liên hợp quốc trong việc thiết lập hòa bình lâu dài trên toàn thế giới. Đã phải chịu nhiều đau khổ do sự cấu kết giữa Pháp với Nhật, nên nhân dân An Nam nhất quyết không để cho người Pháp quay trở lại. Nếu quân đội Pháp từ Trung Quốc, nơi họ rút chạy trong thời kỳ Nhật chiếm Đông Dương, hoặc từ những nơi khác tấn công vào bất kỳ nơi nào ở Đông Dương, hoặc trên lãnh thổ An Nam, nhân dân An Nam quyết chiến đấu chống lại họ trong mọi hoàn cảnh.
3. Nếu ở Đông Dương bắt đầu một cuộc đổ máu hoặc toàn dân khởi nghĩa do những nguyên nhân nêu trong mục 2, thì chỉ có người Pháp phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước thế giới.
Trân trọng. Hồ Chí Minh
Nguồn: АВП РФ, ф. 0136, оп. 29, п.197, д. 31, л.188-189.


Liên tiếp từ tháng 9 đến tháng 10-1945, từ Paris, những bức điện khẩn của Chủ tịch Hồ Chí Minh liên tục được chuyển tới Moscow. Theo I.V. Bukharkin, “Mátxcơva tiếp nhận những bức điện khẩn của lãnh đạo Việt Nam với thái độ khá dè dặt”[9]. Christopher E. Goscha lý giải nguyên nhân của thái độ đó là bởi, dù A.E. Bogomolov, khi đó đang làm Đại sứ Liên Xô tại Paris, người có ít nhiều hiểu biết về Đông Dương có quan điểm giải quyết vấn đề Đông Dương bằng cách giành cho Đông Dương quyền độc lập dưới sự bảo hộ của Uỷ ban An ninh Quốc tế (gồm Mỹ, Anh, Liên Xô, Pháp và Trung Quốc), song “đề xuất này không thuận tai với những người coi thế cuộc châu Âu là mối quan tâm ưu tiên hơn. Stalin chắc sẽ không đi nước cờ đòi độc lập cho Việt Nam để chuốc lấy nguy cơ phải hy sinh một số quyền lợi của Liên Xô trên đất Pháp”[10]. Christopher E. Goscha kết luận: “Như vậy, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù phải hay không phải của những người cộng sản, cũng không giành được vị trí đáng quan tâm đối với Mátxcơva tại thời điểm sau chiến tranh thế giới thứ hai; ngược lại, nước Pháp, nơi Đảng Cộng sản là một lực lượng quan trọng ở chính trường quốc gia, mới thật sự là một ưu tiên”[11].
2- Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, thời gian đầu, thông tin về các sự kiện ở Việt Nam đến Mátxcơva qua ngả Paris. Từ năm 1946 trở đi, Mátxcơva thiết lập những  kênh liên lạc riêng để tiếp nhận tin tức về Việt Nam. Tháng 10-1946, một Phái bộ Xô viết đã đến Sài Gòn, đứng đầu là Đại tá Dubrovin[12]. Về chính thống, nhiệm vụ của Phái bộ là tổ chức hồi hương các tù binh và những người xuất thân từ Liên Xô đang hiện diện ở Đông Dương tại thời điểm đó, tuy nhiên, một thành viên của phái đoàn đã bí mật đến dự cuộc họp của những người cộng sản tại Chợ Lớn. Phát biểu tại cuộc họp, phái viên này nói rằng mục đích thực sự của phái đoàn là nhằm nắm bắt tình hình và tâm trạng của các tầng lớp cư dân xứ Đông Dương, chuẩn bị cho việc trong tương lai gần sẽ mở tại Việt Nam một cơ quan đại diện ngoại giao của Liên Xô. Thế nhưng, Phái đoàn Xô viết đã không bắt liên lạc với Chính phủ Hồ Chí Minh[13].
Từ năm 1947 đến năm 1948, bắt đầu những tiếp xúc bí mật của Liên Xô với đại diện chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Thailand và Paris. Tháng 9-1948, tại Thụy Sĩ, diễn ra cuộc gặp gỡ giữa phái viên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Ngọc Thạch với Đại sứ Liên Xô Kolaichenkov. Tại cuộc gặp, Phạm Ngọc Thạch trình bày với Đại sứ Kolaichenkov về tìn hình cuộc chiến tranh Pháp-Việt, về cách mạng ở Đông Nam Á , về các vấn đề của cách mạng Việt Nam… Phạm Ngọc Thạch khẳng định Đảng Cộng sản Đông Dương là một lực lượng rất mạnh ở Việt Nam, hiện có khoảng một trăm ngàn đảng viên các cấp; đồng thời, giải thích về quyết định giải tán Đảng nhằm tránh gây nghi ngờ cho phía Mỹ, thông báo vắn tắt về tình hình cách mạng ở Đông Nam Á và vai trò tiên phong của Việt Nam trên mặt trận đấu tranh chống đế quốc. Chuyển sang các vấn đề khu vực và quốc tế, Phạm Ngọc Thạch giải thích rằng, trong thời điểm hiện tại, người Mỹ tỏ ra khá trung lập, đôi khi nghiêng về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong cuộc kháng chiến chống thực dân. Phạm Ngọc Thạch phân tích về chiến lược của Mỹ như sau: “Mỹ muốn mở rộng tầm ảnh hưởng ra toàn bộ khu vực Đông Nam Á bằng cách đưa hàng hoá vào tràn ngập khu vực, đồng thời tạo ấn tượng là họ ủng hộ phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân”[14].
Nhìn chung, trong các cuộc tiếp xúc, hai bên chủ yếu thăm dò, tìm hiểu lẫn nhau. Mátxcơva tìm cách xác minh xem ai là người lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Dương và ban lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gắn bó với hệ tư tưởng cộng sản sâu sắc đến đâu, còn Việt Nam cố gắng tranh thủ viện trợ quân sự và tài chính từ Liên Xô. Đại diện Liên Xô thường xuyên nhắn nhủ để Việt Nam hiểu rằng, chỉ sau chuyến thăm tới Mátxcơva của một trong những nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hoặc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, mới có thể tổ chức những cuộc đàm phán thực chất.
Tháng 12-1947, Phạm Ngọc Thạch gửi đến Đảng Cộng sản Liên Xô Báo cáo “Về tình hình Đảng Cộng sản Đông Dương”, trong đó có đoạn viết: “Chúng tôi đề nghị các đồng chí Xô viết quan tâm hơn đến Việt Nam. Từ trước đến nay, Việt Nam hoàn toàn đơn độc trong cuộc kháng chiến. Báo cáo của đồng chí Jdanov[15] có đề cập đến Việt Nam cho phép chúng tôi hy vọng các đồng chí Liên Xô đã hiểu được tầm quan trọng của cuộc kháng chiến chống đế quốc trên đất nước chúng tôi, đồng thời cũng là cửa ngõ của Đông Nam Á. Thắng lợi của cuộc kháng chiến ở Việt Nam và Indonesia sẽ thể hiện sức mạnh của thành trì chống đế quốc ở châu Á. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á có Đảng cộng sản nắm được thực quyền”[16]. Liên Xô không có phản hồi tích cực, nhất là trong so sánh với Chính phủ Cộng hoà Indonesia non trẻ. Mặc dù cũng giống như đối với Việt Nam, Liên Xô khá thận trọng trước những bức điện của Chủ tịch Soekarno, song những năm 1945 -1948, chính sách ngoại giao của Liên Xô ngày càng thiên về ủng hộ cuộc kháng chiến của Indonesia chống lại Hà Lan hơn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam và đầu năm 1948, Liên Xô công nhận thực tế (de facto) và thiết lập ngoại giao cấp lãnh sự với Cộng hoà Indonesia (trong khi Việt Nam còn đang chật vật tranh thủ sự thừa nhận của Liên Xô). Đến năm 1948, sự liên hệ của Việt Nam với Liên Xô, ảnh hưởng của Liên Xô đối với Việt Nam khá mờ nhạt. Báo cáo của Văn phòng Nghiên cứu tình báo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cung cấp thêm một căn cứ cho nhận định trên: “Người Mỹ vẫn không chắc chắn rằng Hồ Chí Minh và Việt Minh đã liên minh với Điện Kremlin (....) Bộ Ngoại giao không có bằng chứng nào về sự liên hệ trực tiếp giữa Hồ Chí Minh và Mátxcơva (...) cũng không thể đánh giá mức độ ảnh hưởng hay vai trò chỉ đạo mà Mátxcơva đang áp đặt lên Hồ Chí Minh”[17]. Sau một cuộc khảo sát về ảnh hưởng của cộng sản ở Đông Nam Á, Văn phòng Nghiên cứu tình báo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ kết luận rằng, “âm mưu đạo diễn của Kremlin đã được tìm thấy trong hầu như tất cả các nước ngoại trừ Việt Nam[18].

Báo cáo của Văn phòng Nghiên cứu tình báo

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
Cho đến nay, báo đài Việt Nam không tỏ ra chống Hoa Kỳ. Trong khi ấy báo chí Pháp ở các thuộc địa lại quay ra chống Mỹ một cách mạnh mẽ, thoải mái tố Hoa Kỳ là đế quốc ở Đông Dương tới mức tưởng chừng như Mỹ được xếp hạng cùng tần số với Moscow. Mặc dù truyền thông Việt Nam theo dõi chặt chẽ thái độ của Hoa Kỳ nhưng cho đến nay vẫn chưa có gì thay đổi. Cũng không thấy có sự rạn nứt trong Chính phủ liên hiệp Việt Minh của Việt Nam …
Đánh giá: Nếu Mátxcơva có âm mưu can thiệp vào khu vực Đông Nam Á thì tình hình đó ở Đông Dương là một sự bất thường cho đến nay. Có thể giải thích như sau:
1. Không có chỉ thị cứng nhắc được ban hành bởi Moscow.
2. Chính phủ Việt Nam cho rằng nó không có thành phần thuộc cánh hữu cần phải được thanh lọc.
3. Cộng sản Việt Nam không có lợi ích gì để theo đuổi các chính sách đối ngoại của Moscow.
4. Một sự miễn trừ đặc biệt nào đó đã được Mátxcơva dành cho Chính phủ Việt Nam.
Trong khả năng trên, khả năng đầu tiên và thứ tư dường như là rất có thể.
 Nguồn: The Pentagon Papers Gravel Edition, Volume 1, Chapter I, "Background to the Crisis, 1940-50", pp. 1-52.

3- Như vậy, cho đến năm 1954, thái độ của Liên Xô đối với Việt Nam khá thận trọng, quan hệ Việt Nam – Liên Xô “thân không gần, xa không lạnh”. Lý giải về sự xa cách trong quan hệ Việt – Xô giai đoạn này, nhà sử học I.A. Koroneva cho rằng, “Việt Nam và Đông Dương chưa phải là mối quan tâm thực sự của Liên Xô bởi vị trí địa lý xa xôi của nó”[19]; đồng thời, tin tức về Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với Mátxcơva chậm chạp, không được đầy đủ. Do vậy, trước những bức công điện của Hồ Chí Minh gửi năm 1945, Liên Xô đã không mấy mặn mà trả lời. Ngoài việc chưa thực sự tin ở cách mạng Việt Nam, sự nghi ngại Hồ Chí Minh không phải người cộng sản, mà là một nhà dân tộc chủ nghĩa vẫn chưa được gạt bỏ hoàn toàn[20] đã cản trở người đứng đầu Nhà nước Liên Xô có những động thái mạnh mẽ xích gần Việt Nam – quốc gia tiền đồn của phe dân chủ ở Đông Nam Á[21]. Ngoài những nguyên nhân đã liệt kê, nhà nghiên cứu I.A. Koroneva nhấn mạnh nguyên nhân chính, chủ yếu nhất là ở chỗ Liên Xô “không muốn đụng chạm đến quyền lợi của Pháp ở Đông Dương”[22].
Ngoài ra, ít tháng trước khi cách mạng Trung Quốc thành công, Lưu Thiếu Kỳ đã có một vài chuyến đi bí mật tới Liên Xô. Tại cuộc hội đàm với Lưu Thiếu Kỳ (7-1949), I.V.Stalin nhiệt thành khuyến khích Trung Quốc có một vai trò lớn hơn đối với việc thúc đẩy làn sóng cách mạng ở Đông Nam Á[23]. Trong cuộc hội đàm tháng 8-1949, khi thảo luận về sự cần thiết phải tiến hành "cách mạng thế giới", nhất trí cao về vị trí trung tâm cách mạng của Liên Xô, Lưu Thiếu Kỳ và I.V.Stalin đã thỏa thuận vai trò đầu tàu đối với cách mạng phương Đông của Trung Quốc[24]. Nhà nghiên cứu M.M.Ilinski cho biết thêm: Trong cuộc gặp gỡ với Mao Trạch Đông vào tháng 12-1949, nhân bàn đến vấn đề Việt Nam, I.V.Stalin tuyên bố: "Các đồng chí hãy tự quyết định lấy mọi việc! Về phía chúng tôi, nếu cần, chúng tôi sẽ ủng hộ và giúp đỡ. Có điều, hãy thông báo tình hình thường xuyên!"[25]. Biên bản Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 17-3-1950 minh chứng thêm cho thông tin của M.M.Ilinski: Liên Xô đồng ý để "Trung Quốc đại diện cho quyền lợi của mình tại Việt Nam"[26]. Như vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ 2, có vị trí, vai trò trong quan trọng trên trường quốc tế, về đối ngoại, Liên Xô tập trung ưu tiên củng cố vành đai an ninh tại vùng biên giới phía Tây, duy trì hòa hoãn với các nước lớn để giải quyết các vấn đề do chiến tranh để lại, ưu tiên củng cố khu vực ảnh hưởng truyền thống – vòng cung Đông Âu, tranh thủ nước Pháp để Pháp không tham gia tổ chức quân sự do Mỹ lập ra ở châu Âu. Trong bối cảnh đó, Việt Nam chưa phải là mối quan tâm của Liên Xô.

Download toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC




[1]Tháng 8-1945, quân đội Nhật ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương vẫn còn đông tới khoảng 7 triệu người, với 10.000 máy bay, 500 tàu chiến, trong khi quân Đồng Minh chỉ có khoảng 1,8 triệu người và 5.000 máy bay. Nếu như Liên Xô không tham chiến với quân Nhật, cuộc chiến tranh sẽ có thể kéo dài lâu hơn nữa.
[2]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 6.
[3]АВП РФ, ф. 0136, оп. 29, п.197, д. 31, л.187.
[4]Phó Giám đốc Ban Tư liệu - Lịch sử, Bộ Ngoại giao Nga, Chủ tịch Hiệp hội "Lưu trữ Ngoại giao" Quốc tế.
[5]И.В.Бухаркин: “Кремль и Хо Ши Мин 1945-1969”, Жур. Новая и новейшая история, № 3, 1998, C. 126.
[6]АВП РФ, ф. 0136, оп. 29, п.197, д. 31, л.188-189.
[7]Vụ trưởng vụ Châu Âu 1, Ban Đối ngoại Liên Xô.
[8]И.В. Бухаркин: “Кремль и Хо Ши Мин 1945-1969”, Указ. Соч, C. 126.
[9]Бухаркин И.В: “Кремль и Хо Ши Мин 1945-1969”, Указ. Соч, C. 128.
[10]Christopher E. Goscha:Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Integration of Vietnam into the Internationalist Communist Movement (1945–1950)”, Journal of Vietnamese Studies, Berkeley 11-2006.
[11]Christopher E. Goscha:Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Integration of Vietnam into the Internationalist Communist Movement (1945–1950)”, Ibid.
[12]L.A. Patti cung cấp một thông tin tương tự, nhưng tên người đứng đầu Phái bộ là Stephanne Solosief: “Không giống người Pháp bị tổn thương đang đi tìm kiếm sự đền bù, hoặc người Nhật bại trận với sự kìm chế những suy nghĩ thầm kín của họ đằng sau những bộ mặt nghiêm nghị, hay người Việt Nam đang ra sức tranh thủ để được thừa nhận; Solosieff đến như một người chiến thắng, một đồng minh, một người bạn. Ông ta tự giới thiệu là người liên lạc của Xô Viết với các cơ quan chính trị của Nhật ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn; có trách nhiệm chăm lo đến các quyền lợi của các công dân Xô Viết ở Đông Dương mà theo ông thì có tới 5 hay 6 ngàn người” (Nguồn: L.A.Patti: Tại sao Việt Nam? Nxb. Đà Nẵng, 1995, tr. 188-189.
[13]Ai là tác giả của bức thư Việt Nam gửi Stalin? vietnamese.ruvr.ru
[14] Christopher E. Goscha:Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Integration of Vietnam into the Internationalist Communist Movement (1945–1950)”, Ibid.
[15] Tháng 9-1947, theo sáng kiến của Đảng Cộng sản Liên Xô, tại Vacxava Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản Liên Xô, Bungari, Hunggari, Ba Lan, Rumani, Tiệp Khắc, Nam Tư, Pháp và Italia được tổ chức. Tại Hội nghị, Trưởng đoàn đại biểu Liên Xô A. Jdanov trình bày bản báo cáo nhan đề “Thế giới sau chiến tranh”, phân tích tình hình thế giới, đánh giá so sánh lực lượng trên thế giới và xác định những nhiệm vụ cơ bản của các Đảng Cộng sản.
[16]Dẫn theo Christopher E. Goscha: “De T. Chouklin à Pouklov: Compte-rendu sur la situation du Parti au Vietnam,” dated December 15, 1947, no. 619, document 4, fonds no. 5, opus 10, dossier 404, Centre russe de conservation et d’études des documents de l’Histoire moderne.
[17]The Pentagon Papers Gravel Edition, Volume 1, Chapter I, "Background to the Crisis, 1940-50", pp. 1-52.
[18]The Pentagon Papers Gravel Edition, Volume 1, Chapter I, Ibid.
[19]И.А.Конорева: “Геополитические интересы СССР и США в Юго-Восточной Азии в контексте Первой индокитайской войны (середина 40-х – начало 50-х годов ХХ в)”, Жур. Ученые записки Курского государственного университета, №1, 2008, C. 99.
[20]Селиванов И.Н: “Хо Ши Мин и Сталин: несколько эпизодов из советско-Вьетнамскик отношений”, Жур.
Вестник архивиста, № 2, 2010, C.10.
[21] Có ba vấn đề liên quan đến Việt Nam luôn được đặt thành câu hỏi đối với Liên Xô: 1- Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán; 2- Chậm làm cách mạng ruộng đất; 3 -Việt Nam tranh thủ Mỹ. Việc Hồ Chí Minh quyết định giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương và tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ.
[22]И.А. Конорева: “Геополитические интересы СССР и США в Юго-Восточной Азии в контексте Первой индокитайской войны (середина 40-х – начало 50-х годов ХХ в)”, Указ. Соч, №1, C. 100.
[23] Chen Jian:"The Sino-Soviet alliance and China's entry into the Korean War", Washington, D.C.: The Cold War International History Prọịect of the Woodrow Wilson International Center for Scholars, December 1991, p. 12.
[24] Chen Jian: China's Road to the Korean War: The Making of the Sino-American Confrontation, New York, Columbia University Press, 1994, pp.74-75.
[25]М.М. Илинский: Вьетнамский синдром, война разведок, М.ЗКСМО, 2005, C. 117.
[26]РГАСРИ, ф.17, оп.3, д.1080, л.55.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!