Nguyễn
Thị Mai Hoa
Đại
học Quốc gia Hà Nội
1. Thời khắc cam go và sự lựa chọn sáng
suốt
Cách mạng tháng Tám 1945 thành
công đánh dấu một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - thời đại nhân
dân đứng lên làm chủ vận mệnh đất nước, tự quyết định, tự lựa chọn con đường đi
cho dân tộc. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, khát vọng độc lập, tự
do cháy bỏng của cả dân tộc Việt Nam đã thành hiện thực. Đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập"[1][1].
Sự kiện Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên được thành lập ở Việt Nam là bước
đột phá khởi đầu, song đặc biệt quan trọng vào hệ thống dinh lũy của chủ nghĩa
đế quốc, báo hiệu thời kỳ tan rã không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân cũ.
Với tầm vóc lớn lao, ý nghĩa to lớn mang tầm quốc gia và quốc tế, thành quả
Cách mạng tháng Tám – thành quả xương máu của dân tộc Việt Nam trở thành đối
tượng đánh phá, tiêu diệt của các thế lực phản động cả trong nước và quốc tế.
Nhất quán với ý
đồ quay lại Đông Dương, khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đang trong giai
đoạn kết thúc, thực dân Pháp từng bước chuẩn bị mọi mặt cho kế hoạch quay trở
lại nơi vốn coi là "lãnh địa" của mình. Trong tình hình đó, ngày
17-7-1945, Hội nghị Potsdam nhóm họp và ra quyết định đưa quân đội Đồng mình
vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật. Quyết định của Hội nghị Potsdam đã dẫn
tới sự có mặt của một lực lượng lớn quân đội nước ngoài tại Việt Nam, đối địch
với chính quyền cách mạng Việt Nam còn non trẻ, vừa mới ra đời. Đây là một sự
chênh lệch lớn về cán cân lực lượng, ngày càng trở nên hết sức bất lợi cho
chính quyền cách mạng còn trứng nước.
Sau Cách mạng
tháng Tám 1945, cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, ngay từ những ngày
đầu tiên, Nhà nước Việt Nam mới đã xác định: "Cuộc cách mạng Đông Dương
lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải
phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn,
nó chưa hoàn thành, vì nước chưa được hoàn
toàn độc lập"[2]; nhận diện một cách chính xác kẻ thù nguy hại nhất lúc này
vẫn "là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn
lửa đấu tranh vào chúng"[3].
Bên cạnh nạn giặc ngoại xâm, nạn giặc "nội xâm" tiếp tục hoành hành,
gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Tổ quốc lâm nguy!
Trong tình thế
"ngàn cân treo sợi tóc", trên nguyên tắc giữ vững chủ quyền và độc
lập dân tộc, Nhà nước Việt Nam đã có những bước đi sách lược khôn khéo, phân
hoá cao độ kẻ thù, tạm thời hoà hoãn với quân Tưởng để giữ vững chính quyền,
tạo điều kiện đối phó với quân Pháp ở miền Nam, từng bước phá tan âm mưu “diệt
Cộng cầm Hồ”, “Hoa quân nhập Việt” của Tưởng Giới Thạch; đồng thời, không ngừng
củng cố khối đoàn kết toàn dân, động viên toàn thể nhân dân đoàn kết một lòng,
dốc sức xây dựng thực lực đất nước.
Sau hơn 6 tháng
tích cực đấu tranh bảo tồn nền độc lập, tự do quý báu vừa mới giành được, đất
nước lại đứng trước những thử thách và sự lựa chọn mới. Ngày 28-2-1946, Hiệp
ước Hoa - Pháp được ký kết tại Trùng Khánh. Hai nước lớn đã mua bán, trao đổi
lợi ích, tạo điều kiện cho thực dân Pháp quay trở lại Đông Dương, "bắt
nhân dân Việt Nam nhắm mắt nuốt chửng Hiệp ước Hoa – Pháp"[4]. Về Hiệp ước Trùng Khánh, Đảng Cộng sản Đông Dương nhận
định: Hiệp ước Hoa – Pháp chứng tỏ "vì muốn
cứu vãn quyền lợi chung của đế quốc, chống
phong trào cách mạng vô sản và cách mạng thuộc
địa, Anh, Pháp và Mỹ - Tàu đã tạm dẹp mâu
thuẫn bộ phận ở Đông Dương"[5]
và "dù nhân dân Đông Dương muốn hay
không muốn, nhất định chúng cũng thi hành Hiệp
ước ấy"[6].
Vấn đề đặt ra không phải là đánh hay không đánh, mà "là biết mình biết
người, nhận một cách khách
quan những điều kiện lời lãi trong nước và
ngoài nước mà chủ trương cho đúng"[7].
Đứng trước thời khắc gay go, quyết liệt, đòi hỏi những hành động tỉnh táo, đúng
đắn, Đảng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra quyết sách lịch sử sáng
suốt: Hòa để tiến.
2. Lùi để tiến
vì đại cục
Quyết định hòa
với Pháp để đuổi Tưởng về nước, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phân tích
tình hình, khả năng có thể ký Hiệp ước với phía Pháp và nhận thấy rằng, tuy
quân Tàu, Pháp đã ký Hiệp ước và có thái độ không đếm xỉa đến ý chí, nguyện
vọng của nhân dân Việt Nam, "nhưng chúng vẫn gờm
cách mạng Đông Dương và dư luận quốc tế, nên cả Tàu lẫn Pháp cũng muốn dàn xếp
với ta về việc quân Pháp kéo vào Bắc nước
ta"[8] và "bọn Pháp muốn dàn xếp với ta cũng bởi một
là cuộc kháng chiến của ta làm cho chúng hao
tốn; hai là phong trào phản chiến nảy nở trong
nhân dân và quân đội Pháp; ba là nhân dân Pháp
và Chính phủ Goanh (trong đó cộng sản và xã
hội chiếm đa số) không muốn kéo dài cuộc đổ
máu ở Đông Dương"[9].
Như vậy, điều kiện hòa hoãn đã hiện hữu và Dự thảo Hiệp định sơ bộ Việt -
Pháp với những điều khoản nhân nhượng cần thiết liên quan đến quyền lợi
quốc gia đã được nhanh chóng hoàn thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Hội đồng
Chính phủ báo cáo với Ban Thường trực Quốc hội, với Chính phủ, Uỷ ban kháng
chiến, Cố vấn tối cao tại phiên họp đặc biệt sáng 6-3-1946 và được sự nhất trí
của Hội nghị. Để cho sự uỷ quyền có tính chất chính thức, tất các các vị đại
biểu tham dự phiên họp đều ký vào Biên bản đặc biệt ; đồng thời,
Chính phủ cũng sẽ yêu cầu những vị vắng mặt ký vào biên bản sau.
Sau những cuộc
thương lượng và nhân nhượng có nguyên tắc, 16 giờ 30 phút chiều ngày 6-3-1946,
lễ ký kết Hiệp định Sơ bộ Pháp - Việt đã diễn ra tại nhà số 38 phố Lý
Thái Tổ, Hà Nội. Theo Hiệp định, nước Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
là một quốc gia tự do, có Chính phủ, Quốc hội, quân đội và tài chính riêng, nằm
trong Liên bang Đông Dương thuộc Khối Liên hiệp Pháp và cam đoan thừa nhận kết
quả cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ; nước Việt Nam đồng ý để
15.000 quân Pháp vào Bắc Việt Nam thay thế quân đội Trung Hoa và sẽ rút hết sau
5 năm; hai bên đình chiến để mở cuộc đàm phán chính thức, trong khi đàm phán,
quân đội hai bên giữ nguyên vị trí...[10]. Mặc dù phía Pháp chưa công nhận
nền độc lập của Việt Nam, song bản Hiệp định lại mang tính chất văn bản pháp lý
quốc tế đầu tiên của nước Việt Nam độc lập ký với nước ngoài, có sự chứng kiến
của đại diện các nước Mỹ, Anh và Trung Hoa. Điều này chứng tỏ rằng: Việt Nam
không còn là thuộc địa của Pháp, "đối với nước Việt Nam ta, sự ký kết đó
có một kết quả hay là nước Pháp đã thừa nhận nước Việt Nam là một nước tự
chủ"[11].
Đánh giá về ý nghĩa quốc tế của bản Hiệp định, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
"Bản Hiệp định sẽ dẫn chúng ta đến một vị trí quốc tế ngày càng
vững vàng, và đó là một thắng lợi chính trị lớn lao”[12].
Như vậy, Hiệp định sơ bộ đã tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh ngoại
giao của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, Hiệp định Sơ bộ Việt – Pháp đã biến
thoả thuận tay đôi Hoa - Pháp thành thoả thuận tay ba Việt - Pháp - Hoa, kết
thúc vai trò của lực lượng Tưởng Giới Thạch về mặt pháp lý theo quyết định của
các nước lớn Đồng minh tại Hội nghị Potsdam.
Việc đẩy quân đội Tưởng ra khỏi Việt Nam đã làm thay đổi tương quan lực lượng
có lợi cho cách mạng Việt Nam. Khi kháng chiến toàn quốc nổ ra, thay vì phải
đối đầu với hơn 30 vạn quân của các lực lượng thù địch, 20 triệu đồng bào Việt
Nam chỉ còn phải chiến đấu chống 10 vạn quân Pháp. Bên cạnh đó, Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa có "hai điều lợi lớn:
a). Phá được mưu mô bọn Tàu trắng, của bọn phát xít, và
của bọn Việt gian, bảo toàn được thực
lực ; b). Dành được giây phút nghỉ ngơi để sửa soạn cuộc chiến
đấu mới phối hợp với các cuộc chiến đấu của
nhân dân Pháp, tiến tới giành độc lập hoàn
toàn"[13].
Có thể nói rằng, mềm dẻo trong sách lược, cứng rắn trên nguyên tắc, Hiệp định
Sơ bộ là bước đi cần thiết, hy sinh không gian để tranh thủ thời gian, biến
thời gian thành lực lượng vật chất, củng cố thực lực một cách toàn diện để đối
phó với đối phương chính, có thực lực to lớn là thực dân Pháp song trong điều
kiện không còn có lực lượng đồng minh hỗ trợ tại chỗ; đồng thời, việc chấp nhận
cho cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc cũng chính là một hình thức san đỡ gánh
nặng, chia lửa với đồng bào miền Nam ruột thịt.
Trên thực tế,
khi Hiệp định Sơ bộ được ký kết, trong Đảng và trong nhân dân cũng có
rất nhiều thắc mắc, "cho đó là chính sách quá hữu", song thực tiễn đã
chứng minh rằng, "chúng ta cần hoà bình để xây dựng nước nhà, cho nên
chúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ hoà
bình. Dù thực dân Pháp đã bội ước, đã gây
chiến tranh, nhưng gần một năm tạm hoà bình đã
cho chúng ta thời giờ để xây dựng
lực lượng căn bản"[14], chuẩn bị sẵn sàng mọi mặt cho cuộc
kháng chiến mà chúng ta lường định là khó tránh khỏi.
3. Bài
học lịch sử viết cho thời hiện tại
"Nếu có
lợi cho cách mạng, thì dù có phải thỏa hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thỏa
hiệp"[15] – trên tinh thần ấy, Hiệp định
Sơ bộ 6-3 là một mẫu mực về sự thoả hiệp có
nguyên tắc để phá thế bế tắc, vượt qua khó khăn, lợi dụng mâu thuẫn giữa các
nước lớn với nhau, cũng như mâu thuẫn nội bộ của mỗi lực lượng có mặt tại Việt
Nam; từ đó tạo điều kiện đạt tới mục tiêu đã định, hướng tới độc lập, tự do
thống nhất thực sự.
Trên cơ sở giữ
vững độc lập tự chủ, linh hoạt trong đấu tranh, chủ động kiên quyết và khôn
khéo, luôn hướng đích, việc nhân nhượng có nguyên tắc thể hiện sinh động qua Hiệp
định Sơ bộ đã cho phép Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ trong
những thời điểm nguy nan của đất nước biến nghịch thành thuận, biến những khả
năng mỏng manh thành hiện thực có lợi cho đất nước. Đó cũng là cái cách mà
Chính quyền chưa đầy tuổi thôi nôi đã cân nhắc lợi hại gần xa của dân tộc một
cách cẩn trọng, trong hai con đường đi đến độc lập, “đã chọn con đường đỡ
hao tổn mà cũng chắc chắn hơn”[16].
Sau khi ký Hiệp
định Sơ bộ, Tạm ước 14-9-1946 là một bước đi nhân nhượng tiếp theo của Nhà nước
Việt Nam mới cùng với sự khẳng định dứt khoát: "Tạm ước ngày 14 tháng Chín
là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của
nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc!”[17]. Hiệp định Sơ bộ 6-3 và Tạm
ước 14-9 đã xác định giới hạn, nguyên tắc của sự nhân nhượng - đó là không
bao giờ làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Có thể nói rằng,
việc ký kết Hiệp định Sơ bộ thể hiện bản lĩnh vững vàng của bộ máy lãnh
đạo đất nước quyết sách vì tồn vong đất nước, dân tộc - nắm vững quy luật khách
quan, nắm vững thời và thế, biết cách tạo thời và thế, từ đó phấn đấu giành
thắng lợi từng bước, từ nhỏ đến lớn, từ thấp lên cao, biết tiến, biết thoái,
thoái một bước để tiến hai bước, giải quyết hài hòa giữa cương và nhu, lấy nhu
thắng cương.
Hiện nay, quá
trình xây dựng đất nước đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách, phức tạp trước sự
vận động, biến đổi nhanh chóng, khó lường của tình hình thế giới, của các mối
quan hệ quốc tế. Mối quan tâm, ưu tâm hàng đầu hiện nay là đảm bảo lợi ích quốc
gia dân tộc - xây dựng đất nước phát triển bền vững;
độc lập, tự do của Tổ quốc, an ninh và phát triển là lợi ích tối cao của dân
tộc. Để đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc, cần nhận thức rằng, bối cảnh tình
hình mới đang làm cho hình thức tập hợp lực lượng, diễn biến các mối quan hệ
quốc tế, các phương thức hợp tác cũng đa dạng và phong phú hơn. Trước những
biến động đó, một mặt, phải giữ vững mục tiêu bất biến - độc lập dân
tộc; mặt khác, ý thức đầy đủ mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh; nhân
nhượng và đấu tranh trong hợp tác quốc tế. Trong một
thế giới đang biến đổi sâu sắc, việc xử lý đúng đắn và hài hòa quan hệ của Việt
Nam với các nước láng giềng và nước lớn, biết mình, biết người.là điều kiện
quan trọng để đảm bảo vững chắc lợi ích quốc gia dân tộc. Trên ý nghĩa ấy,
những kinh nghiệm lịch sử từ việc ký kết Hiệp định Sơ bộ 6-3 luôn ở trong hành
trang đi tới tương lai của Việt Nam.
Download toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC
[2]Đảng Cộng sản
Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000, tr. 26.
[4]
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8, Sđd, tr. 42 .
[12] Philippe
Devillers, Tài liệu lưu trữ chiến tranh 1944-1947, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, 1993, tr. 218.
[16]Quốc hội nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam, Văn kiện Quốc hội toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 77.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!