Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

QUAN HỆ VỚI CÁC NƯỚC LÁNG GIỀNG VÀ KHU VỰC TRONG TƯ DUY VỀ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM SAU ĐỔI MỚI (1986)




Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Trong mọi thời điểm, nhân tố quốc tế- thời đại, đặc biệt là vấn đề quan hệ với các nước láng giềng và khu vực luôn có những ảnh hưởng nhất định đến tiến trình phát triển của Việt Nam. Những năm đổi mới, vấn đề này càng được đặt ra cấp thiết; nhận thức và đánh giá đúng vai trò, vị mối quan hệ với các nước láng giềng, khu vực là bước chuyển quan trọng trong tư duy, quan điểm về đối ngoại của Đảng CSVN.

1. Sau Chiến tranh Lạnh, tất cả các quốc gia, đặc biệt là các nước vừa và nhỏ, các tổ chức, các lực lượng chính trị quốc tế đều thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại, tìm ra phương hướng hành động phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bên trong và xu thế phát triển của thế giới, nhằm giành được những lợi ích cao nhất, hạn chế sự thua thiệt và bất bình đẳng. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Nắm bắt được xu hướng chính, xu hướng ưu tiên cho phát triển kinh tế, kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia và cuộc chạy đua về kinh tế đang dần thay thế cho cuộc chạy đua vũ trang, Việt Nam tiến hành điều chỉnh chiến lược đối ngoại với mục tiêu tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong đổi mới chính sách đối ngoại, việc sắp xếp các đối tượng quan hệ có một vai trò quan trọng. Đại hội VI của Đảng CSVN (12-1986) - Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới đã đặt làm trọng vấn đề giữ vững độc lập tự chủ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Ngoài việc tăng cường đoàn kết và đẩy mạnh quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô- quan hệ vốn được coi là “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, thì quan hệ với các nước láng giềng và khu vực ngày càng được chú trọng. Đại hội VI Đảng CSVN xác định: “Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương”[1], đoàn kết và tôn trọng chủ quyền của mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, coi đây “là quy luật sống còn và phát triển của cả ba dân tộc anh em”[2] Việt Nam- Lào- Campuchia. Đối với Trung Quốc- nước láng giềng có những mắc mớ trong lịch sử với Việt Nam, những động thái tích cực đã bắt đầu rõ nét: “Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu, nhằm bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới”[3]. Đặt đất nước trong mối quan hệ chung của khu vực, Đại hội VI đã thể hiện thiện chí, mong muốn của Việt Nam đối với việc tạo lập môi trường hoà bình ở Đông Nam Á, “mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác”[4]. Đây chính là sự khẳng định quan điểm thực hiện chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau, tranh thủ tối đa những điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu xây dựng đất nước. Nhìn tổng quát, chính sách đối ngoại mà Đại hội VI đề ra đã tập trung hướng ưu tiên đối ngoại cho việc tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước khác, trong đó có các nước láng giềng và khu vực.
Sau Đại hội VI, để bắt kịp với diễn biến của tình hình quốc tế và trong nước, Bộ Chính trị, Đảng CSVN thông qua nghị quyết Hội nghị Trung ương 13 (5-1988), nói rõ hơn về chính sách đối ngoại trong tình hình mới, nhấn mạnh chủ trương “thêm bạn, bớt thù”, “giữ vững hoà bình, phát triển kinh tế”; đa dạng hoá quan hệ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi. Nghị quyết chỉ ra những vấn đề cấp bách trước mắt trong thực hiện nhiệm vụ đối ngoại là cần chủ động chuyển sang một giai đoạn mới, dưới hình thức cùng tồn tại hoà bình với Trung Quốc, ASEAN, Mỹ; xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác. Nghị quyết 13 ra đời là sự đáp ứng kịp thời với tình hình mới, bước đầu bước ra khỏi tình trạng chỉ tập trung quan hệ đối ngoại vào các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân, mở ra khả năng tránh thế biệt lập, ít bạn bè, nhiều lực lượng chống đối.
 Tiếp tục đổi mới tư duy trong giải quyết quan hệ giữa lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương (khoá VI, 3-1990) xác định quan điểm phải đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, đi đôi với phương châm “thêm bạn, bớt thù” không để những vấn đề cục bộ, tạm thời, thứ  yếu cản trở việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược này. Hội nghị nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, đoàn kết quốc tế phù hợp với tình hình mới. Tiếp đó, Đại hội VII (6-1991) đã coi nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là “giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”[5]. Trên quan điểm cơ bản nêu trên, Đại hội VII xác định những mục tiêu đối ngoại có tầm quan trọng có tầm quan trọng đặc biệt: 1- Không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết đặc biệt giữa Đảng và nhân dân Việt Nam với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân Campuchia[6]; 2-Phấn đấu góp phần sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ về vấn đề Campuchia, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và Hiến chương Liên hợp quốc[7]; 3- Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, từng bước mở rộng hợp tác hữu nghị Việt- Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng[8]; 4- Phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ở Đông Nam Á[9], phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác[10].
Có thể nói, so với Đại hội VI, đây là bước phát triển quan trọng trong tư duy hoạch định chính sách đối ngoại của cấp lãnh đạo cao nhất Việt Nam. Trước những chuyển biến của tình hình thế giới, trong xu thế không thể nào khác, Việt Nam đã có nhận thức mới về vấn đề hoà bình, an ninh ở khu vực, thấy rõ mối liên hệ ràng buộc giữa an ninh quốc gia với an ninh khu vực và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng.
Năm 1993, như một động thái quan trọng thể hiện việc thực hiện đường lối đối ngoại chú trọng quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, Chính phủ Việt Nam công bố Chính sách bốn điểm mới của Việt Nam đối với khu vực, một mặt tuyên bố “tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với từng nước láng giềng cũng như với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với tư cách là một tổ chức khu vực”[11]; mặt khác, bày tỏ mong muốn “sẵn sàng gia nhập ASEAN vào thời điểm thích hợp”[12] Như vậy, vào đầu thập niên 90 (XX), Việt Nam đã bước tiếp một bước, chuẩn bị cho việc trở thành một thành viên của tổ chức ASEAN- điều mà lẽ ra cần phải làm từ trước đó rất lâu, khi ASEAN có thiện chí mở rộng cánh cửa với Việt Nam sau chiến thắng Mùa Xuân năm 1975.
Năm 1996 là một dấu mốc mới trong chặng đường phát triển của Việt Nam, Đại hội VIII (6-1996) Đảng CSVN xác định thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một tuyên ngôn mới về chính sách đối ngoại ra đời: “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, hợp tác và phát triển”[13]. Trên cơ sở đó, một vấn đề có tính chiến lược trong đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam được định hình rõ: “Ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế- chính trị trên thế giới”[14]. Qua sự sắp xếp các đối tác của quan hệ đối ngoại thời kỳ này, có thế thấy các ưu tiên trong triển khai đường lối đối ngoại được đặt vào một trật tự: Xác nước láng giềng, các nước khu vực, các nước lớn, các trung tâm kinh tế...nói cách khác, quan hệ đối ngoại đối với các nước láng giềng, khu vực chiếm giữ vị trí quan trọng và được đặt lên hàng đầu.
Bước sang thế kỷ mới – thế kỷ XXI, Đại hội IX Đảng CSVN (4-2001) tiến thêm một bước, khi tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”[15], theo đó, nhấn mạnh định hướng đối ngoại: “Coi trọng và phát triển quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN, cùng xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hoà bình, không có vũ khí  hạt nhân, ổn định, hợp tác cùng phát triển”3.
Như vậy, từ năm 1986 đến năm 2001, sau 15 năm đổi mới, chủ trương, chính sách của Đảng, của Nhà nước Việt Nam có những điều chỉnh ngày càng rõ nét theo hướng chú trọng quan hệ với các nước láng giềng và khu vực. Thực chất của sự đổi mới này là thay thế quan điểm “khép kín” trong thế đối đầu trước đây bằng quan điểm mới, phù hợp với yêu cầu phát triển nội tại và xu thế mở cửa, hội nhập khu vực, quốc tế, nắm bắt cơ hội, tiến hành hội nhập trên cơ sở nhận thức đúng những biến động của tình hình thế giới và xu thế quốc tế, nhất là “xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước”[16]. Việc kịp thời điều chỉnh chiến lược đối ngoại, đề ra đường lối, chủ trương phù hợp với tình hình mở ra cơ hội phát triển mạnh mẽ quan hệ hữu nghị, hợp tác của Việt Nam với các nước láng giềng, khu vực và tham gia tích cực vào đời sống quốc tế.
2. Triển khai đường lối đối ngoại đổi mới với tư duy mới về quan hệ láng giềng, khu vực, hoạt động đối ngoại của Việt Nam tập trung giải quyết những trở ngại, vướng mắc trong quan hệ với các nước láng giềng, khu vực; trong đó, Việt Nam chú trọng tháo gỡ quan hệ với các nước có mắc mớ phức tạp trong lịch sử, đặc biệt là rung Quốc.
Vấn đề bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc - một nước lớn có chung biên giới là yêu cầu chiến lược của Việt Nam và trở nên hết sức cần thiết bởi việc  kiến lập môi trường hoà bình, ổn định, để tập trung sức phát triển đất nước phụ thuộc một phần vào vấn đề này. Bên cạnh đó, là quốc gia có tiếng nói trọng lượng trên trường quốc tế, việc nối lại quan hệ bình thường với Trung Quốc giúp Việt Nam giảm bớt sự cô lập, giảm bớt áp lực đối với những vấn đề của đất nước, tranh thủ thị trường lớn của Trung Quốc, đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh. Nhận thức rõ điều đó, Việt Nam tích cực thực hiện/đẩy nhanh các bước giải quyết vướng mắc với Trung Quốc, tiến tới bình thường hoá quan hệ. Với nỗ lực cả từ hai phía, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc đã chính thức bình thường hóa sau cuộc gặp cấp cao ngày 5-11-1991 tại Bắc Kinh; bắt đầu từ đó, hợp tác toàn diện với Trung Quốc được coi là chính sách nhất quán và lâu dài của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Tất nhiên, Việt Nam và Trung Quốc cũng có những lợi ích khác nhau và không hoàn toàn đồng nhất; và vì thế, dù lợi ích chung lớn hơn bất đồng, song con đường bình thường hóa hoàn toàn quan hệ hai nước vẫn nhiều cam go.
Tích cực giải quyết vấn đề Campuchia, Đảng và Nhà nước Việt Nam tham gia các Hội nghị cấp cao Việt Nam- Lào- Campuchia, trao đổi tình hình và tìm các giải pháp. Việt Nam và Campuchia thoả thuận rút hết chuyên gia quân sự, dân sự, quân đội, Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước vào tháng 9-1989. Việt Nam đóng vai trò tích cực trong Hội nghị Pari về Campuchia (7-1989) Với cố gắng, nỗ lực của các bên liên quan và sáng kiến của hai nhóm nước Đông Dương, ASEAN, bốn văn kiện quan trọng đã được ký kết tại Trung tâm quốc tế Clebe (Pari, 23-10-1991); nhờ đó, vấn đề Campuchia dần được giải quyết. Đối với những vấn đề của khu vực, Việt Nam công khai tuyên bố: “Lợi ích của Việt Nam gắn liền với lợi ích của khu vực”, hoặc “mối quan tâm đặc biệt của chúng ta là mở rộng quan hệ với các nước láng giềng trong khu vực, phấn đấu cho một Đông Nam Á mới hoà bình, hữu nghị và hợp tác”[17]. Việc giải quyết vấn đề Campuchia tiến triển thuận lợi một phần nhờ những đóng góp của Việt Nam và thiện trí hội nhập khu vực đã cải thiện đáng kể vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế, thúc đẩy phát triển quan hệ của Việt Nam với các nước, các nước ASEAN giảm bớt những nghi kỵ đối với Việt Nam. Trên tinh thần “biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường”, các nước trong khu vực tăng cường ủng hộ chính sách đối ngoại rộng mở của Việt Nam. Hơn nữa, các nước ASEAN cũng nhận thấy rằng, các quan hệ thân thiện, có tính chất xây dựng giữa Việt Nam và ASEAN sẽ đưa đến một môi trường chiến lược bớt căng thẳng hơn ở Đông Nam Á, đảm bảo hoà bình, phồn vinh cho khu vực.
Trước những thuận lợi đó, Việt Nam thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ với ASEAN, tham gia ký Hiệp ước Bali (1992) và ngày 28-7-1995, Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức này. Sự kiện đó đã mở ra một thời kỳ mới ở khu vực Đông Nam Á, chấm dứt một thời kỳ dài nửa thế kỷ đầy những thăng trầm trong quan hệ của Việt Nam với các quốc gia khu vực. Với tư cách là thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam có điều kiện tham gia vào các hoạt động của tổ chức này trên mọi phương diện hợp tác, được dư luận các nước Đông Nam Á và quốc tế đánh giá cao. Tuy ASEAN là một tổ chức tập hợp các quốc gia rất đa dạng, chênh lệch nhau rất lớn về diện tích, dân số, trình độ phát triển kinh tế, khác nhau về chế độ chính trị - xã hội, nhưng Việt Nam đã nhanh chóng thích nghi và từng bước tạo lập vị thế trong tổ chức này.
Cùng với thời gian, ASEAN ngày càng trở nên một cực độc lập, nổi bật ở châu Á- Thái Bình Dương. Sự tăng trưởng kinh tế của Đông Nam Á khiến cả thế giới chú ý. Sự trỗi dậy của ASEAN khiến cục diện chính trị ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương phát triển theo chiều hướng cân bằng và đa cực hoá. Điều đó cho thấy việc Việt Nam gia nhập, tăng cường quan hệ với tổ chức này là hoàn toàn cần thiết.  
3. Trong chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia, ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng và khu vực là một vấn đề mang tính quy luật. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã từng cố gắng xây dựng quan hệ láng giềng thân thiện, hữu hảo với các quốc gia xung quanh. Tuy nhiên, đến trước đổi mới (trước năm 1986), do những tác động khách quan và chủ quan, Việt Nam đã nhiều lúc không kế thừa và phát huy được truyền thống đó. Nhiều giai đoạn, Việt Nam chỉ coi trọng đồng minh chiến lược, coi nhẹ láng giềng, có quan hệ thù địch, đối đầu với một số nước láng giềng, khu vực.
Bắt đầu từ năm 1986, dù chậm, song Việt Nam đã mạnh dạn đổi mới nhận thức về bạn – thù.nỗ lực xây dựng quan hệ hoà hiếu với các nước láng giềng và khu vực sau những sự kiện mang tính bản lề diễn ra trên thế giới: Tan vỡ trật tự thế giới hai cực, sự tác động to lớn của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ đối với mọi lĩnh vực của đời sống, khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực…. Những đặc điểm này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành những xu thế vận động mới của lịch sử, hình thành những phương thức và chuẩn mực quan hệ quốc tế mới, trong đó quan hệ láng giềng, khu vực  (trong đó có Việt Nam).
Chú trọng hợp tác hữu nghị với các nước láng giềng và khu vực, Việt Nam đã vượt qua được cách phân chia thế giới theo tiêu chí đã từng được coi là duy nhất: Tiêu chí ý thức hệ. Thời kỳ Chiến tranh Lạnh, với sự đối đầu Đông- Tây, việc Việt Nam nghiêng hẳn về các đồng minh chiến lược trong phe xã hội chủ nghĩa đã tạo điều kiện cho Việt Nam giành và giữ độc lập dân tộc.Tuy nhiên, khi công cuộc giải phóng đất nước kết thúc (1975) và một thời gian dài sau đó (tới trước năm 1986), việc nhìn nhận quan hệ đối với các nước nói chung và các nước láng giềng và khu vực nói riêng dưới lăng kính ý thức hệ đã tạo ra một khoảng cách lớn trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước này. Bên cạnh đó, quan hệ căng thẳng với Trung Quốc và việc nhìn nhận ASEAN như là khối chính trị- quân sự đối lập thay thế SEATO chống Việt Nam và các lực lượng cách mạng khác ở Đông Nam Á đã làm Việt Nam bỏ qua những thời điểm, những cơ hội để hội nhập khu vực, trở thành một trong những nguyên nhân của lạc hậu và tụt hậu của Việt Nam so với khu vực và thế giới. Khắc phục hạn chế đó, dần dần, dù muộn, song Việt Nam đã có cách nhìn khác, đúng đắn hơn về các nước láng giềng, khu vực, chuyển từ cách phân chia hai khu vực theo ý thức hệ thành thị trường thế giới theo nhiều khu vực, với căn cứ quan trọng nhất là điều kiện địa lý, trình độ phát triển kinh tế, phù hợp với xu thế hậu Chiến tranh Lạnh – xu thế hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình giữa các nước, không phân biệt ý thức hệ và chế độ chính trị. Như vậy, việc Việt Nam tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, mở rộng quan hệ song phương và đa phương là phù hợp với xu thế liên kết khu vực đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Hoà vào xu thế này, Việt Nam một mặt vừa tận dụng tiềm năng vốn có, vừa tận dụng được tiềm năng của từng quốc gia có quan hệ; đồng thời, vừa tranh thủ được cơ hội mới do quá trình khu vực hoá đem lại, ứng phó hiệu quả với những thách thức mới nảy sinh. Nói cách khác, mở rộng, tăng cường hợp tác với các nước láng giềng và khu vực là con đường đưa Việt Nam nhanh chóng hội nhập quốc tế, tạo điều kiện có thể vừa liên kết khu vực, vừa hội nhập thế giới, lấy liên kết khu vực là trọng điểm, là ưu tiên, lấy liên kết khu vực để tác động vào hội nhập thế giới, mở rộng quan hệ với các nước lớn, lấy hội nhập thế giới để hỗ trợ cho việc liên kết khu vực một cách có nhanh chóng, thực chất.
Đẩy mạnh quan hệ ngoại giao hoà hiếu với các nước láng giềng, khu vực, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã xử lý hài hoà lợi ích của mình với lợi ích an ninh và phát triển của các quốc gia láng giềng, góp phần tạo lập, giữ vững môi trường quốc tế hoà bình. Một môi trường quốc tế thuận lợi, hoà bình bền vững có tác dụng thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của đất nước, tạo ra thế và lực mới, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Thực tiễn những năm đổi mới cho thấy, nhờ môi trường quốc tế ổn định, nhờ hội nhập, nhờ nỗ lực hội nhập, Việt Nam đã thu được kết quả khả quan trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ổn định chính trị- xã hội, tạo thế mạnh trong quan hệ đối ngoại. Trên trường quốc tế, hình ảnh của Việt Nam đã không ngừng được cải thiện, vị trí ngoại giao không ngừng được nâng cao. Đây cũng là một trong những nhân tố rất cần thiết để xây dựng một mối quan hệ bình đẳng với các nước láng giềng, khu vực.
Hiện nay, kết hợp yếu tố dân tộc và quốc tế không chỉ là vấn đề mang tính quy luật mà còn là yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng, dù ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, nhưng hợp tác không có nghĩa là nhân nhượng những vấn đề có tính nguyên tắc. Phương châm chung trong chính sách đối với các nước nói chung và các nước láng giềng, khu vực nói riêng là vừa hợp tác trên cơ sở bình đẳng, đôi bên cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau, vừa đấu tranh mềm dẻo nhưng cương quyết, nhằm bảo toàn, phát triển đất nước, không gây mâu thuẫn dẫn đến xung đột vũ trang, đấu tranh để hợp tác, tồn tại và phát triển. Cơ chế mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh là không để đấu tranh phá vỡ hợp tác; đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình. Vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong khi phát triển quan hệ giúp chống lại những thua thiệt trong các quan hệ bất cân xứng, góp phần xây dựng nên bầu không khí chính trị- ngoại giao lành mạnh. Tư tưởng bao trùm trong quan hệ đối với các nước láng giềng, khu vực là cần phải thích nghi chung sống và đối thoại kiên trì vì lợi ích chung.
Một cách tổng quát, việc Việt Nam coi trọng mở rộng quan hệ hữu nghị và tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước láng giềng, cũng như với ASEAN với tư cách là một tổ chức khu vực là cần thiết, phù hợp thực tiễn, tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của nhiều nước, nhanh chóng hội nhập quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam phát triển, thực hiện tốt mục tiêu phát triển, xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó cũng là con đường đối ngoại tiếp nối, nhất quán trong những thời gian tới.

Download toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sdd, 1987 tr 100.
[2]  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sdd, 1987 tr 100.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sdd, 1987, tr 107.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sdd 1987, tr 108.
[5]  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, 1991, tr 88
[6] .Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, 1991, tr 89.
[7] .Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, 1991, tr 89.
[8] .Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, 1991, tr 89.
[9] .Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, 1991, tr 90.
[10] .Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, 1991, tr 90.
[11] Chính sách bốn điểm mới của Việt Nam đối với khu vực”, Báo Nhân dân ngày 13-10-1993.
[12] Chính sách bốn điểm mới của Việt Nam đối với khu vực”, Báo Nhân dân ngày 13-10-1993.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, 1996, tr 120.
[14]  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, 1996, tr 121.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, 2001, tr 119.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam , Nghị quyết Hội nghị lần thứ VI BCHTƯ, khoá 6, Nxb CTQG, 1989, tr 30.
[17] Phát biểu của Nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VIII (9-1991).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!