Nguyễn
Thị Mai Hoa
Đại
học Quốc gia Hà Nội
Tiến hành kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, bảo vệ các quyền dân tộc thiêng liêng, bảo vệ các giá trị nhân
bản, trong cuộc đối đầu lịch sử với một đối phương mạnh hơn gấp nhiều lần, có
tiềm lực kinh tế, quân sự vượt trội, nhân dân Việt Nam luôn nhận được sự đồng
tình, cổ vũ của các lực lượng dân chủ, tiến bộ, hòa bình trên thế giới. Thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ không tách rời sự ủng hộ quốc tế to lớn,
trong đó có sự giúp đỡ của Liên Xô – quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng
hùng mạnh với những vũ khí chiến lược tối tân, hiện đại. Viện trợ quân sự toàn
diện của Liên Xô, nhất là vào những thời điểm quan trọng của cuộc kháng chiến,
đã tăng cường đáng kể và tạo ra sức mạnh quan trọng cho nhân dân Việt Nam chiến
đấu.
1. Quyết định tăng cường viện
trợ cho Việt Nam
Từ giữa những năm 60 (XX), ở
Đông Nam Á diễn ra những thay đổi nhanh chóng. Mỹ tăng cường sự hiện diện, củng
cố quyền lực trong khu vực, đẩy mạnh hỗ trợ các nước Đông Nam Á chống lại “nguy
cơ” của chủ nghĩa Cộng sản. Trung Quốc - đối thủ cạnh tranh của Liên Xô, một
mặt, vừa tiếp tục có thái độ thù địch với Liên Xô, vừa "tìm kiếm quan hệ
với Washington để cân bằng địa vị với Liên Xô”[1], đẩy nhanh hòa hoãn với Mỹ;
mặt khác, tích cực giúp đỡ Việt Nam chống Mỹ, thông qua Việt Nam mở rộng ảnh
hưởng đối với các nước Đông Nam Á.
Những sự kiện nêu trên minh chứng
cho vị trí địa - chiến lược, địa – chính trị và địa – quân sự quan trọng của
Đông Nam Á nói riêng, châu Á nói chung và tác động, ảnh hưởng, buộc Liên Xô
phải nhìn nhận, cân nhắc lại quan hệ với khu vực này, khởi động lại chính sách
châu Á. Trên con đường khẳng định vị thế, tham gia vào các vấn đề của khu vực,
Việt Nam - quốc gia "điểm nóng" là sự lựa chọn thích hợp, "một
kênh quan trọng giúp Liên Xô có thể thâm nhập vào Đông Nam Á, cô lập, ngăn chặn
chiến lược mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc, không rơi vào thế yếu một khi
Trung Quốc hòa hoãn với Hoa Kỳ"[2].
Chuyến thăm của Đoàn đại biểu
Liên bang CHXHCN Xô-viết do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A.N. Kosygin
dẫn đầu đến Việt Nam vào tháng 2-1965 là dấu mốc quan trọng, mở ra bước ngoặt
trong quan hệ Việt – Xô với cam kết giúp đỡ toàn diện, cung cấp vũ khí củng cố
khả năng phòng thủ của Việt Nam, chống lại sự tấn công bằng không lực của Mỹ.
Đó là lựa chọn – như phân tích của Cục tình báo Trung ương Hoa Kỳ, "đảm
bảo cho sự có mặt và ảnh hưởng lâu dài của Liên Xô ở Việt Nam (…). Đó cũng là cách
Liên Xô giúp đỡ Việt Nam cộng sản chiến thắng – một chiến thắng không gắn với
và khuyếch trương uy tín, thanh thế của Trung Quốc"[3]. Tháng 4-1965, Tổng
Bí thư Lê Duẩn dẫn đầu đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam sang thăm Liên Xô, thỏa
thuận và ký kết hiệp định về viện trợ quân sự. Ngày 10-7 và ngày 21-10 -1965,
hai nước ký thêm hai thỏa thuận về viện trợ bổ sung. Trong các thỏa thuận và
quyết định hỗ trợ quân sự cho Việt Nam của Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Cộng
hòa XHCN Xô-viết, nội dung viện trợ, giúp đỡ được thực hiện trên cơ sở các kế
hoạch dài hạn, bao gồm: 1- Cung cấp vũ khí, thiết bị quân sự, đạn dược, phụ
tùng và các vật liệu quân sự chuyên biệt; 2- Biệt phái các chuyên gia quân sự
Liên Xô giúp đỡ Quân đội Việt Nam tiếp cận, sử dụng các loại vũ khí, trang
thiết bị quân sự được viện trợ, giúp sửa chữa và hiện đại hóa chúng; 3- Hỗ trợ
xây dựng, trang bị cơ sở vật chất cho các mục đích quân sự; 4- Chuyển giao giấy
phép, các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật cho việc sản xuất đạn dược, một số loại
vũ khí, thiết bị quân sự, cũng như các hướng dẫn kỹ thuật khác; 5- Đào tạo quân
nhân Việt Nam trong các cơ sở quân sự của Bộ Quốc phòng Liên Xô[4]. Theo các
bản cam kết và ghi nhớ, các loại trang thiết bị quân sự Liên Xô viện trợ cho
Việt Nam gồm: Tên lửa đất đối không (SAM), pháo cao xạ, thiết bị ra đa, thiết
bị vô tuyến điện tử, bệ phóng tên lửa, máy bay chiến đấu MiG-17, máy bay chiến
đấu siêu thanh MiG-21, IL-28, máy bay tiêm kích SU-17, máy bay vận tải IL14,
LI-2, xe tăng T-34 và T-54, khí tài vượt sông; một số khí tài thông tin, phòng
hóa[5]… Nhìn chung, vũ khí, khí tài đa dạng về chủng loại, tối tân, hiện đại,
có khả năng phát huy tốt trên chiến trường Việt Nam. Theo thỏa thuận, vũ khí,
khí tài được vận chuyển tới Việt Nam qua hai ngả: Bằng đường sắt qua Trung Quốc
và đường biển qua cảng Hải Phòng. Để dễ dàng, nhanh chóng vận chuyển hàng viện
trợ, A.N. Kosygin đề nghị Trung Quốc cho phép sử dụng sân bay Côn Minh, lập cầu
hàng không qua không phận Trung Quốc, song Trung Quốc từ chối. Sau một thời
gian đàm phán, Trung Quốc đồng ý để viện trợ cho Việt Nam được vận chuyển bằng
đường sắt qua lãnh thổ Trung Quốc và “để đạt được thỏa thuận, Liên Xô đã chuyển
cho Trung Quốc 50 triệu rúp”[6]. Đối với vận chuyển hàng hóa bằng đường biển,
Liên Xô huy động thường xuyên 20 tàu vận tải cỡ lớn của Công ty vận tải Biển
Đen và Viễn Đông. Chính phủ Liên Xô khẳng định rằng, viện trợ cho Việt Nam được
thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Xô –viết, tuân thủ các
điều ước, hiệp ước và thông lệ quốc tế, trên tinh thần anh em, tương trợ lẫn
nhau và tình cảm quốc tế vô sản sâu sắc.
2. Viện trợ vũ khí, khí tài và
đào tạo nhân lực quân sự bậc cao
Mức độ viện trợ, các loại vũ
khí, khí tài Liên Xô giúp đỡ Việt Nam chưa bao giờ được hai nước công bố chính
thức. Thu thập từ những nguồn khác nhau, số liệu viện trợ không thống nhất và
cách thức thống kê cũng không đồng nhất: Theo số lượng, khối lượng, chủng loại,
trị giá… Theo một số tài liệu lưu trữ của Cục lưu trữ Liên bang Nga, vũ khí của
Liên Xô được tăng cường chuyển tới Việt Nam từ cuối năm 1964 đầu năm 1965, mặc
dù những thỏa thuận cụ thể chỉ đạt được từ tháng 4 -1965. Thực hiện các hiệp
định, thỏa thuận và cam kết[7], từ tháng 3-1965, “lực lượng phòng không của
Việt Nam được trang bị pháo cao xạ 37 mm và súng phòng không 57 mm. Từ tháng
7-1965, tổ hợp tên lửa đất đối không tầm cao SA-75 Dvina (SAM) đã có mặt ở Việt
Nam”[8]. Về trị giá viện trợ từng năm, theo một báo cáo của Bộ Ngoại giao Liên
Xô (10-1965), từ năm 1962 đến năm 1965, Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam trang
thiết bị quân sự (trong đó có cả máy bay) trị giá gần 200 triệu USD và hơn một
nửa số này (60%) được chuyển cho Việt Nam trong năm 1965[9]. Cũng về viện trợ
trong năm 1965, Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS, Luân Đôn) cung cấp số
liệu sau: Năm 1965, trị giá viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam là 210
triệu USD (chiếm 60% tổng viện trợ kinh tế)[10]. Năm 1967, theo Báo cáo thường
niên của Bộ Ngoại giao Liên Xô (12-1967), đây là năm Liên Xô cung cấp viện trợ
cao nhất cho Việt Nam[11], còn Viện IISS không đưa ra trị giá cụ thể, chỉ thống
kê chủng loại, số lượng vũ khí: “Đến tháng 9-1967, Liên Xô đã gửi đến Việt Nam
các máy bay chiến đấu MiG-17 và MiG-21, IL-28, máy bay ném bom, máy bay vận
tải, máy bay trực thăng, 6.000 súng phòng không, tên lửa đất đối không và
200-250 bệ phóng tên lửa cùng hàng ngàn súng phòng không các loại”[12]. Theo
thống kê của Việt Nam, trong điều kiện chiến sự diễn ra ác liệt, căng thẳng, Bộ
Quốc phòng “đề nghị Liên Xô gửi gấp ngay sang số khí tài quân sự trong kế hoạch
viên trợ năm 1967, đặc biệt cấp thiết là các máy bay chiến đấu MiG -21, F13 và
MiG -17 F, tên lửa bổ sung cho số đã dùng trong chiến đấu, đạn cao xạ, trang bị
cho đơn vị tên lửa bảo vệ bờ biển, các khí tài chống nhiễu, các trạm rađa
SNAR-6, các loại khí tài bổ sung cho những thiệt hại trong chiến đấu và trang
bị cho các trung đoàn tên lửa phòng không”[13]. Số lượng cụ thể Bộ Quốc phòng
Việt Nam đề nghị là: “1 trung đoàn MiG-17 F (32 máy bay chiến đấu + 10 cơ số
đạn + 5 cơ số bom); 1 trung đoàn MiG-21 F13 (24 máy bay chiến đấu + 2 máy bay
huấn luyện + 10 cơ số đạn + 480 quả tên lửa + 5 cơ số bom); 12 MiG-17 F bổ sung
cho tiêu hao. 1.500 quả tên lửa B-750B, 75 quả tên lửa CA-65M, 288 quả tên lửa
CA-75M, hai bộ điều khiển tên lửa PCHA-75M, 7 bệ phóng tên lửa, 1 trạm lưu động
trung tu khí tài tên lửa phòng không SA-75M. 150.000 viên đạn 57 ly, 2,5 triệu
viên đạn 12,7 ly, 1,5 triệu viên đạn 14,5 ly, 3 triệu viên đạn 37 ly và 2 trạm
khí tượng, rađa pháo mặt đất, cao xạ”[14]. Trả lời yêu cầu của Việt Nam, ngày 4
-5-1967, Liên Xô gửi thư thông báo về nội dung viện trợ quân sự, không chỉ đáp
ứng đầy đủ, mà còn quyết định giúp đỡ thêm lương thực[15]. Về viện trợ quân sự
trong năm 1968 (thời gian Việt Nam chuẩn bị và thực hiện cuộc Tổng tiến công
chiến lược Mậu thân 1968), theo thống kê của Tổng cục 10[16], Bộ Quốc phòng
Liên Xô, “Liên Xô viện trợ cho Việt Nam 357 triệu rúp (tương đương 369,7 triệu
USD[17]), chiếm 2/3 tổng toàn bộ viện trợ mọi mặt”[18], còn Viện IISS đưa ra
con số: “Năm 1968, viện trợ quân sự của Liên Xô cho Chính phủ Bắc Việt Nam đạt
542 triệu rúp (tương đương với 209 triệu USD), trong đó 361 triệu rúp không
hoàn lại”[19]. Như vậy, con số từ hai nguồn thống kê trên có sự chênh lệch và
cách quy đổi tỷ giá hối đoái của Viện IISS thấp hơn một nửa so với quy định của
Bộ Tài chính Liên Xô. Số liệu thống kê về viện trợ trong năm 1968 của Viện IISS
gần với số liệu báo cáo của Bộ Quốc phòng Liên Xô về viện trợ trong hai năm
1966-1967: “Tổng trị giá viện trợ trang thiết bị quân sự cho Việt Nam từ tháng
1-1966 đến tháng 12-1967 là 500 triệu rúp (xấp xỉ 550,5 triệu USD)”[20]. Về
phía Việt Nam, trong các tài liệu lưu trữ, chỉ có số liệu thống kê chung cho cả
ba năm 1965-1968: Khối lượng viện trợ là 257.912 tấn, trị giá ước khoảng 1.173
triệu rúp[21] (khối lượng này theo Thống kê số liệu viện trợ quốc tế, Bộ Quốc
phòng là 226.969 tấn[22], có sự chênh lệch, song không đáng kể). Theo đánh giá
chung, những năm 1965-1968, Liên Xô là nước viện trợ quân sự chủ yếu với trị
giá lớn nhất cho Việt Nam. Báo cáo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng Việt
Nam cho thấy “Liên Xô viện trợ nhiều nhất vào hai năm 1965 - 1967, có nhiều
loại vũ khí tương đối hiện đại, nhưng phần lớn đã qua sử dụng, trừ MiG -21,
ĐKZ- B, cao xạ 23 ly, xe kéo pháo bánh xích, ô tô”[23]. Những năm 1969-1972,
theo Thống kê số liệu viện trợ quốc tế, Bộ Quốc phòng, mức viện trợ quân sự của
Liên Xô cho Việt Nam đạt 143.793 tấn[24]. Giai đoạn 1965-1971, theo số liệu của
các nhà nghiên cứu Liên bang Nga, "tổng giá trị viện trợ quân sự của Liên
Xô cho Việt Nam là 1 tỷ 579 triệu USD, tính trung bình vào khoảng 2 triệu UDS/
ngày”[25]. Về các loại vũ khí chiến lược, trong giai đoạn này,“Việt Nam nhận
được từ Liên Xô 2.056 xe tăng, 1.708 xe bọc thép, 7.000 khẩu súng và súng cối,
hơn 5.000 khẩu pháo cao xạ và bệ đỡ, 158 tổ hợp tên lửa, hơn 700 máy bay chiến
đấu, 120 máy bay trực thăng, 100 tàu chiến”[26]. Ngoài ra, “Liên Xô giúp Việt
Nam xây dựng và đưa vào sử dụng 117 cơ sở quốc phòng”[27]. Trong những năm
1965-1972, riêng tên lửa phòng không, “Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam 95 tổ
hợp SA-75 Dvina và 7.658 tên lửa”[28]. Năm 1972, khi Mỹ tiến hành chiến dịch
Linebacker II, Liên Xô gửi gấp sang Việt Nam một số tên lửa S-125 (SAM 3), song
do triển khai chậm, nên các tên lửa này đã không kịp tham gia chiến đấu[29].
Không chỉ viện trợ trang bị kỹ thuật, Liên Xô còn giúp Việt Nam đào tạo cán bộ,
chiến sĩ để tiếp nhận, sử dụng hiệu quả vũ khí viện trợ, nhất là những vũ khí
hiện đại. Báo cáo của Đại sứ quán Liên Xô tại Việt Nam cho biết: “Riêng năm
1966, đã có 2.600 người Việt Nam được gửi đào tạo ngành không quân và phòng
không tại Liên Xô. Trong năm 1966, Liên Xô đào tạo cho Việt Nam đội ngũ đủ để
xây dựng một trung đoàn phòng không, kỹ thuật viên cho một trung đoàn không
quân và hàng chục phi công”[30]. Tháng 2-1966, “Chủ tịch Đảng Cộng sản Canada, Tim
Buck trả lời phỏng vấn Radio Djakarta, đưa ra một thông tin về khoảng 5.000
người Việt Nam đã được đào tạo từ năm 1965 đến 1966 ở Liên Xô để phục vụ trong
lực lượng phòng không, không quân”[31]. Chủ tịch Tim Buck cũng nói thêm rằng,
đây là thông báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản
Canada đến thăm Hà Nội vào cuối năm 1965. Theo Thượng tướng A.I. Hyupenen,
Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam (1972-1975), “riêng năm
1966, 1.342 người lính Việt Nam bắt đầu học tập trong các trường quân sự của
Liên Xô; trong hai năm 1966 -1967, các cơ sở giáo dục quốc phòng Liên Xô đã đào
tạo cho Việt Nam khoảng 3.000 quân nhân”[32], đến hết năm 1975, “Liên Xô đào
tạo cho Việt Nam ước tính là 13,5 nghìn quân nhân”[33]. Mặc dù gặp phải rào cản
ngôn ngữ, trình độ, song các học viên Việt Nam đã nắm bắt kiến thức nhanh
chóng, nỗ lực hoàn thành các khóa học.
3. Gửi chuyên gia quân sự sang
Việt Nam
Ngày 6-7-1965, Hội đồng Bộ trường
Liên bang Cộng hòa XHCN Xô-viết ban hành Quyết định № 525-200, Về việc thành
lập Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[34], dù
biết rằng sự có mặt của các chuyên gia quân sự Xô-viết tại Việt Nam là một mạo
hiểm cho hòa hoãn Xô – Mỹ. Quyết định № 525-200 nêu rõ nhiệm vụ của Đoàn chuyên
gia: “Trong thời gian ngắn nhất, giảng dạy và huấn luyện lực lượng Phòng
không-không quân Việt Nam đủ khả năng tác chiến”[35]. Công tác chuẩn bị gửi
chuyên gia quân sự sang Việt Nam đã được Nhà nước Xô viết, Bộ Quốc phòng Liên
Xô khẩn trương xúc tiến, thực hiện chu đáo, kỹ lưỡng. Các chuyên gia quân sự
phải đáp ứng những yêu cầu cao về trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, bản
lĩnh chính trị, sức khỏe…. Ứng viên vào các vị trí chỉ huy được lựa chọn gắt
gao và bắt buộc phải qua được "cửa ải" khắt khe của Tổng cục 10, Bộ
Tổng tham mưu và sau đó là cuộc phỏng vấn – thẩm định của Tổng tham mưu trưởng
lực lượng vũ trang Xô-viết[36]. Hầu hết các chuyên gia đều là những sĩ quan, hạ
sĩ quan từng tham gia cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại và chiến tranh Triều Tiên
1953, được tôi luyện, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, trình độ kỹ thuật – quân
sự cao và là vốn quý của lực lượng vũ trang Liên Xô. Sau thời gian chuẩn bị,
chọn lựa, Ban chỉ huy Đoàn chuyên gia đầu tiên được chỉ định, gồm: Chỉ huy
trưởng Thiếu tướng G.A. Belov[37]; Phó Chỉ huy trưởng phụ trách chính trị Đại
tá M. Borisenko và Trưởng nhóm chuyên gia Phòng không Đại tá A.M. Dưza[38]. Từ
năm 1967, Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam qua các thời kỳ
là: Thượng tướng Abramov (1967-1969; Trung tướng B.A. Stolnikov (1968-1970);
Thiếu tướng N.K. Maksimenko (1970-1972) và Thượng tướng A. I.Hyupenen
(1972-1975)[39]. Tháng 4-1965, Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô đầu tiên có sĩ
số 100, dưới sự chỉ huy của Đại tá A.M. Dưza đã đến Việt Nam với nhiệm vụ
“nhanh chóng huấn luyện và đưa vào chiến đấu hai trung đoàn Phòng không Quân
đội Nhân dân Việt Nam”[40]. Cũng trong tháng 4-1965, Trung tâm huấn luyện quân
sự dưới sự chỉ huy của Đại tá M.Tsygankov đã đến Việt Nam; trên cơ sở đó, hình
thành hai Trung tâm huấn luyện quân sự số 1 và 2. Từ ngày mùng 1-5 đến
15-5-1965, Bộ Quốc phòng Liên Xô gửi đến Việt Nam thêm hai Trung tâm huấn luyện
quân sự[41]. Trong một thời gian ngắn, cả bốn Trung tâm đã đi vào hoạt động,
“đến cuối năm 1966, số lượng chuyên gia quân sự Liên Xô tại 4 trung tâm huấn
luyện lên đến 786 người”[42]. Từ tháng 6-1965 đến tháng 5-1967, “Bộ Quốc phòng
Liên Xô đã gửi sang Việt Nam thêm 6 Trung tâm huấn luyện tên lửa –phòng không,
mỗi một Trung tâm đảm nhiệm huấn luyện một trung đoàn Phòng không Việt
Nam”[43]. Tính ra, “từ tháng 4-1965 đến tháng 5-1966, đã có 2.266 chuyên gia
Phòng không Liên Xô đến Việt Nam”[44] và trong khoảng thời gian đó, “các chuyên
gia quân sự Liên Xô đã đào tạo tại chỗ 10 trung đoàn tên lửa phòng không, 3
trung đoàn kỹ thuật vô tuyến, 2 trung đoàn không quân tiêm kích”[45]. Để lắp
ráp, bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa, phục hồi các khí tài bị hư hại, kiểm tra mức
độ sẵn sàng chiến đấu, Liên Xô cử đến Việt Nam một đội ngũ chuyên gia kỹ thuật
quân sự. Họ hoàn thành “những loại công việc mà ngay tại Liên Xô, để thực hiện
chúng, cần phải có những thiết bị đặc biệt của những xưởng cố định”[46]. Tại
sân bay quân sự Nội Bài có các phi công quân sự Liên Xô “làm nhiệm vụ huấn
luyện các chiến sĩ Không quân Việt Nam kỹ thuật hàng không và kỹ thuật lái máy
bay”[47]. Họ bay trên những chiếc máy bay kiểu Xpáccơ không được trang bị vũ
khí, hoặc những máy bay chiến đấu MiG-21U trong tình trạng bất cứ lúc nào sân
bay cũng có thể bị phong tỏa và những chiếc Xpáccơ có tốc độ chậm có thể bị bắn
hạ. Hàng đêm, “các phi công Liên Xô đã tìm cách thực hiện xoay vòng được 20
chuyến bay huấn luyện, hoặc nhiều hơn”[48]. Không hiếm trường hợp, máy bay
luyện tập do chuyên gia Liên Xô điều khiển bị máy bay Mỹ truy đuổi và các phi
công đã phải hạ cánh thẳng xuống sân bay, không có các thiết bị định vị. Cùng
với các chuyến bay huấn luyện, các phi công Liên Xô còn đảm nhận những nhiệm vụ
khác như “thực hiện các chuyến bay thử nghiệm kiểm tra sau khi bảo trì trong
mọi điều kiện thời tiết và thời gian trong ngày”[49]. Năm 1964, Liên Xô và Việt
Nam đã ký một Hiệp định, theo đó, “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giúp Liên Xô thu
thập, đánh giá những mẫu vũ khí và trang thiết bị quân sự Mỹ”[50]. Đầu năm
1965, Tổng cục 10, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Liên Xô thành lập nhóm chuyên gia
quân sự thu nhặt, nghiên cứu chiến lợi phẩm của Mỹ và tháng 10-1965, Đoàn
chuyên gia khoa học quân sự, “gồm các chuyên viên cao cấp của các Học viện quân
sự, Viện nghiên cứu khoa học Bộ Quốc phòng, các chuyên gia - cán bộ thiết kế
ngành công nghiệp quốc phòng, chuyên gia điện tử, thiết bị dẫn đường, thông tin
liên lạc”[51]… sang đến Việt Nam và lập tức bắt tay nghiên cứu. Từ năm 1965 đến
năm 1974, Liên Xô đã gửi sang Việt Nam tất cả “40 chuyên gia quân sự cao cấp
các ngành công nghiệp quốc phòng”[52] cho mục đích trên. Từ tháng 5-1965 đến
tháng 1-1967, nhóm chuyên gia “lượm lặt, lựa chọn và gửi về Liên Xô hơn 700
chủng loại thiết bị quân sự và vũ khí Mỹ”[53]. Trên cơ sở dữ liệu thu thập
được, các chuyên gia quân sự Liên Xô biên soạn những tài liệu quân sự giá trị,
“đưa những đề xuất điều chỉnh các loại vũ khí của Liên Xô có tính năng phù hợp
hoặc vượt trội chống lại trang thiết bị quân sự của Mỹ”[54]; cho phép “giảm
đáng kể chi phí và thời gian nghiên cứu sản xuất những vũ khí tương tự, thúc
đẩy nền công nghiệp quốc phòng Xô-viết phát triển nhanh chóng”[55]. Từ cuối năm
1966 đến tháng 5-1968, Liên Xô gửi sang Việt Nam ba nhóm chuyên gia khoa học
quân sự: Nhóm chuyên gia khoa học tên lửa[56], nhóm chuyên gia công nghiệp quốc
phòng (85 người)[57], nhóm chuyên gia quân sự gây nhiễu và tác chiến điện tử
(do Trung tá V.X. Kixilov chỉ huy)[58]. Ba nhóm chuyên gia nêu trên có nhiệm vụ
nghiên cứu, cải tiến hệ thống tên lửa phòng không S-75, cải tiến bộ khí tài tên
lửa, tìm ra phương thức gây nhiễu và chống nhiễu hiệu quả. Các chuyên gia quân
sự Liên Xô nỗ lực làm việc trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, sinh hoạt khó
khăn và trong một thời gian ngắn đã kịp thời chuyển giao kết quả nghiên cứu,
góp phần nâng cao đáng kể hiệu suất chiến đấu cho lực lượng cho Phòng không -
không quân Việt Nam. Từ tháng 4-1965 đến tháng 12-1974, Liên Xô cử một đội tầu
tình báo Hải quân thuộc Hạm đội Thái Bình Dương (trong đó có những tàu ngầm
thuộc loại hiện đại nhất) “thường trực tại khu vực biển Đông – Vịnh Bắc Bộ -
đảo Gyam với nhiệm vụ trinh sát, đảm bảo hoạt động chiến đấu cho các đơn vị vũ
trang Xô-viết và Việt Nam”[59]. Tình báo Hải quân Liên Xô theo dõi và cung cấp
thông tin về thời gian cất cánh, chiến thuật đánh phá của máy bay Mỹ, hoạt động
của các chiến hạm Mỹ phong tỏa bờ biển Việt Nam. Trong năm 1965, “đội tàu ngầm
của Liên Xô đã tiến hành 12 lượt trinh sát tại vùng biển Philippines và biển
Đông; trong năm 1966, số lượng trinh sát tại các vùng biển nêu trên tăng hơn
gấp đôi, đạt 27 lần”[60]. Những năm 1964-1974, trong vùng biển Việt Nam và vùng
biển gần Việt Nam, thường xuyên có “17 đội tàu trinh sát liên tục hoạt động,
thực hiện 94 lượt trinh sát, mỗi lượt kéo dài từ 3-4 tháng’[61]. Nhờ các thông
tin tình báo do Hạm đội Thái Bình Dương cung cấp, lực lượng Phòng không – không
quân Việt Nam luôn chủ động di chuyển, ẩn tránh, hoặc đón đánh Thần Sấm, B-52.
Từ tháng 10-1968 đến cuối năm 1972, nhằm giúp Việt Nam chống lại chiến lược
phong tỏa bờ biển của Mỹ, rà phá bom mìn trên các cửa cảng, Liên Xô gửi đến
nhóm chuyên gia bom mìn (Chỉ huy trưởng, Đại tá Hải quân S. Buito), các thợ lặn
Hải quân (Chỉ huy trưởng, Chuẩn úy V.Palamarchuk)[62].
Bên cạnh đó, trong khu vực Vịnh Bắc
Bộ, sát hải phận Việt Nam, “hai chiếc tàu gỡ mìn và vớt thủy lôi số hiệu
PR.264A "MT-4", "MT-5" dưới sự chỉ huy của Đại tá D.T.
Lukas tích cực rà tìm, phá nổ bom mìn, giải tỏa vùng biển”[63]. Được sự trợ
giúp của các chuyên gia bom mìn Xô viết, các cửa cảng nhanh chóng được mở trở
lại, đón những chuyến hàng viện trợ, tăng cường tiềm lực cho Việt Nam trên
chặng đường cuối cùng giải phóng đất nước. Theo thống kê của Tổng cục tác
chiến, Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô, "từ ngày 11-7-1965
đến ngày 31-12-1974, có 6.359 sĩ quan, tướng lĩnh và hơn 4.500 binh sĩ, hạ sĩ
quan các lực lượng vũ trang Liên Xô tham gia chiến đấu tại Việt Nam”[64]; “13
chuyên gia quân sự Liên Xô đã hy sinh”[65]. Vì lòng quả cảm, tinh thần chiến
đấu quên mình và những đóng góp to lớn đối với nhân dân Việt Nam, “2.190 chuyên
gia quân sự được tặng các phần thưởng của Nhà nước Liên Xô, hơn 3.000 chuyên
gia quân sự được tặng thưởng các huân chương và huy chương của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa”[66].
*
*
*
Các trang bị vũ khí, khí tài Liên Xô
viện trợ đã phát huy tác dụng tích cực trên chiến trường miền Nam Việt Nam, đẩy
mạnh tác chiến hiệp đồng binh chủng, góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Với sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, tiềm lực quốc
phòng của Việt Nam được tăng cường nhanh chóng. Đến cuối năm 1965, bộ đội chủ
lực miền Bắc tăng từ 195.000 người lên 400.000 người, các quân, binh chủng tăng
gấp ba lần so với năm 1964. Riêng Quân chủng Phòng không - Không quân phát
triển vượt bậc với pháo phòng không, tên lửa đất đối không, ra đa cảnh giới,
không quân tiêm kích… bố trí thành thế trận liên hoàn có thể đánh địch ở những
độ cao khác nhau, vừa bảo đảm tác chiến rộng khắp, vừa có thể tập trung lực
lượng bảo vệ những trọng điểm giao thông, những khu vực quốc gia trọng yếu.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh phá hoại nói riêng, trong
kháng chiến chống Mỹ nói chung không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ chí nghĩa, chí
tình của những người con Xô viết, của đất nước Liên Xô anh em. Nhân dân Việt
Nam biết ơn, trân trọng và mãi mãi ghi nhớ sự giúp đỡ quý báu ấy.
________________________________________
[1] Letter from Allen S. Whiting to Henry Kissinger, 16
August 1969, enclosing report, "Sino-Soviet Hostilities and Implications
for U.S. Policy", National Archives, Nixon Presidential Materials Project,
box 839, China.
[2]Alexander Okorokov: Những cuộc chiến tranh bí mật của
Liên Xô, Nxb. Yauza, Eksmo, M, 2008, (tiếng Nga), tr. 189.
[3] Soviet Tactics Concerning Vietnam, 15 July 1965, CIA
Released Documents, National Archives and Records Administration, Special
Memorandum RO,13-65.
[4] Đảng Cộng sản Liên Xô qua các nghị quyết, quyết
định của các đại hội, hội nghị và các phiên họp toàn thể của Ủy ban Trung ương
(1898-1986), Nxb Chính trị, M, 1983, tr. 378.
[5] Bản ghi nhớ về viện trợ quân sự giữa Đoàn đại biểu
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đại diện Chính phủ Liên bang các nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 21-10-1965, Trung tâm lưu trữ quốc gia
Liên bang Nga, phông 17, đơn vị bảo quản số 165, hồ sơ số 140, tài liệu số 55,
tr.2.
[6] Alexander Okorokov: Những cuộc chiến tranh bí mật
của Liên Xô, Sđd, tr. 189.
[7] Từ năm 1965 đến năm 1972, Việt Nam và Liên Xô đã
ký kết gần 20 thỏa thuận, cam kết, ghi nhớ và hiệp định về viện trợ quân
sự.
[8]Báo cáo của Tổng cục 10, Bộ Quốc phòng, Liên bang các
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 30-5-1965 (tài liệu giải mật),
Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ
sơ số 114, tài liệu số 15, tr.4.
[9] Báo cáo của Bộ Ngoại giao Liên bang các nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 26-10-1965, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang
Nga, phông 17, đơn vị bảo quản số 165, hồ sơ số 140, tài liệu số 55,
tr.2.
[10]Sources of Military Equipment to North Vietnamese
Military Forces, 1975, Archives, The International Institute For Strategic
Studies, Volume I, p.5.
[11] Báo cáo của Bộ Ngoại giao Liên bang các nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 28-12-1967, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang
Nga, phông 17, đơn vị bảo quản số 165, hồ sơ số 152, tài liệu số 5, tr.3.
[12]Sources of Military Equipment to North Vietnamese
Military Forces, 1975, Tlđd, p.7.
[13] Thư đề nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gửi Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô-viết về viện trợ
quân sự khẩn cấp trong năm 1967, ngày 3-6-1967, tài liệu trữ Bộ Quốc phòng,
phông BTTM, hồ sơ 1146.
[14] Thư đề nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gửi Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô-viết về viện trợ
quân sự khẩn cấp trong năm 1967, ngày 3-6-1967, Tlđd.
[15] Thư đề nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gửi Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô-viết về viện trợ
quân sự khẩn cấp trong năm 1967, ngày 3-6-1967, Tlđd.
[16] Tổng cục Hợp tác quân sự quốc tế, trực thuộc Bộ
Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô, trực tiếp điều phối và thực hiện
viện trợ quân sự cho Việt Nam.
[17] Tỷ giá quy đổi USD theo tỷ giá hối đoái chính thức của
Liên Xô:1USD =0,9 rúp.
[18] Báo cáo của Tổng cục 10, Bộ Quốc phòng, Liên bang
các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 30-12-1968, Trung tâm lưu trữ
quốc gia Liên bang Nga, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ sơ số 145, tài liệu
số 21, tr.6.
[19] Sources of Military Equipment to North Vietnamese
Military Forces, 1975, Archives, The International Institute For Strategic
Studies, Volume II, p.7.
[20] Báo cáo của Tổng cục 10, Bộ Quốc phòng, Liên bang
các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 30-12-1967, Trung tâm lưu trữ
quốc gia Liên bang Nga, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ sơ số 142, tài liệu
số 26, tr.7.
[21] Tổng hợp số liệu, (tài liệu họp Quân ủy Trung ương),
Quân ủy Trung ương, 1969, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ, Bộ Quốc
phòng, tr.119.
[22] Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Thống kê số liệu viện
trợ quốc tế, hồ sơ 795, sô 15.
[23] Bộ Tổng tham mưu, Báo cáo Thường trực Quân uỷ
Trung ương về đề nghị các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ quân sự năm 1968,ngày
8-5-1967, tài liệu trữ Bộ Quốc phòng, phông BTTM, hồ sơ 1150.
[24] Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Thống kê số liệu viện
trợ quốc tế, Sđd.
[25] V.A. Zolotareva (chủ biên): Nước Nga (Liên Xô)
trong các cuộc chiến tranh cục bộ và các xung đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX,
Nxb. Politresyrxu, M, 2000, (tiếng Nga), tr.100.
[26] V.A. Zolotareva (chủ biên): Nước Nga (Liên Xô) trong
các cuộc chiến tranh cục bộ và các xung đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, Sđd,
tr.100.
[27] V.A. Zolotareva (chủ biên): Nước Nga (Liên Xô) trong
các cuộc chiến tranh cục bộ và các xung đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, Sđd, tr.100.
[28] Báo cáo của Tổng cục 10, Bộ Quốc phòng, Liên bang
các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 30-12-1972, Trung tâm lưu trữ
quốc gia Liên bang Nga, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ sơ số 150, tài liệu
số 25, tr.8.
[29] Alexander Okorokov: Những cuộc chiến tranh bí mật của
Liên Xô, Sđd, tr. 326.
[30] Báo cáo của Đại sứ quan SSSR tại Việt Nam gửi Bộ Ngoại
giao Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 25-12-1966,
Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 17, đơn vị bảo quản số 165, hồ
sơ số 142, tài liệu số 12, tr.8.
[31] States of Sovist and Chinese Military Aid to
North Vietnam, Special Report, Page 5, Central- intelligence agency, CIA
Released Documents, National Archives and Records Administration.
[32] A.I. Hyupenen, Hỗ trợ kỹ thuật quân sự của Liên
Xô cho Việt Nam trong chiến tranh chống Mỹ, Tuyển tập “Chiến tranh Việt Nam:
Nhìn lại qua tháng năm…”, M, 2000, (tiếng Nga), tr.44.
[33] Báo cáo của Tổng cục 10, Bộ Quốc phòng, Liên bang
các nước cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết, ngày 30-12-1975, Trung tâm lưu trữ
quốc gia Liên bang Nga, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ sơ số 160, tài liệu
số 20, tr.9.
[34]Alexander Okorokov: Những cuộc chiến tranh bí mật của
Liên Xô, Sđd, tr. 345.
[35] Alexander Okorokov: Những cuộc chiến tranh bí mật của
Liên Xô, Sđd, tr. 348.
[36]Alexander
Okorokov: Những cuộc chiến tranh bí mật của Liên Xô, Sđd, tr. 349.
[37]Thiếu tướng G.A. Belov là Trưởng đoàn chuyên gia quân sự
Liên Xô tại Việt Nam từ tháng 9-1965 đến tháng 10-1967. Trước đó, Đại tá A.M.
Dưza phụ trách nhóm chuyên gia Phòng không từ tháng 4-1965 đến tháng
9-1965.
[38] B.V.Gromova (chủ biên): Những cuộc chiến tranh và xung
đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, M. 2003, tr.40.
[39] B.V.Gromova (chủ biên): Những cuộc chiến tranh và xung
đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, Sđd, tr.40. [40] Alexander Okorokov: Những cuộc
chiến tranh bí mật của Liên Xô, Sđd, tr. 349.
[41] Alexander Okorokov: Những cuộc chiến tranh bí mật
của Liên Xô, Sđd, tr. 350.
[42] Tập thể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại qua
tháng năm…, M, 2000, tr.44.
[43] B.V.Gromova (chủ biên): Những cuộc chiến tranh và xung
đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, Sđd, tr.47.
[44] B.V.Gromova (chủ biên): Những cuộc chiến tranh và xung
đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, Sđd, tr.47.
[45] Tập thể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại
qua tháng năm…, M, 2000, tr.234.
[46] P.A.Iacolevik: Đặc thù công việc kỹ sư trưởng
trung đoàn tên lửa phòng không ở Việt Nam, M, 2008, (tiếng Nga), tr.6.
[47] V.B.Alecsandrovik: Nhật ký chỉ huy trưởng nhóm chuyên
gia quân sự Liên Xô ở Việt Nam, M, 2008, (tiếng Nga), tr.56.
[48] V.B.Alecsandrovik: Nhật ký chỉ huy trưởng nhóm
chuyên gia quân sự Liên Xô ở Việt Nam, TLđd, tr. 26.
[49]I.P. Ivanovik: Những chiếc MiG trên bầu trời Việt Nam,
M, 2012, (tiếng Nga), tr. 77.
[50] I.V. Gaidyk: Liên bang Xô viết và chiến tranh Việt Nam,
M, 1996, (tiếng Nga), tr.30.
[51] Tập thể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại qua
tháng năm…, Tlđd, tr.342.
[52]B.V.Gromova (chủ biên): Những cuộc chiến tranh và
xung đột vũ trang nửa sau thế kỷ XX, Sđd, tr.97.
53] C.G.Ivannovik: Từ ghi chép của nhà thử nghiệm, M, 2009,
tr.34.
[54] I. V. Gaidyk: Liên bang Xô viết và chiến tranh Việt
Nam, Sđd, tr.30.
[55]Tập thể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại
qua tháng năm…, TLđd., tr.414.
[56]Trong nhóm chuyên gia khoa học tên lửa có nhà khoa
học tài năng phụ trách thiết kế tên lửa S-75 và chuyên gia quân sự “huyền thoại
I.P.Shavkun”- người đã có công lớn hiện đại hóa tên lửa phòng không SAM, được
Nhà nước Việt Nam tặng thưởng huân chương “Chiến thắng” hạng 1,2,3. [57] Tập
thể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại qua tháng năm…, TLđd.,
tr.424.
[58] H.H. Kolecsnik: Về sự tham gia của các chuyên gia quan
hệ trong chiến tranh Việt Nam, M, 2009, (tiếng Nga), tr.99.
[59] A. Sirocorad: Những chiếc tàu trinh sát, Tạp chí Đồng
đội, Số 1, 2012 (tiếng Nga), tr.14.
[60] R.Aleksandr: Những thủy thủ Xô viết giúp đỡ Việt
Nam trong đấu tranh giành độc lập, chống đế quốc Mỹ, M, 2006, (tiếng Nga),
tr.45.
[61] К.V. Asinhinovik: Những trang sử chưa viết của
hạm đội Thái Bình Dương, M, 2008, (tiếng Nga), tr.34.
[62] R.Aleksandr: Những thủy thủ Xô viết giúp đỡ Việt
Nam trong đấu tranh giành độc lập, chống đế quốc Mỹ, Tlđd, tr.46.
[63] R.Aleksandr: Những thủy thủ Xô viết giúp đỡ Việt Nam
trong đấu tranh giành độc lập, chống đế quốc Mỹ, Tlđd, tr.48.
[64] Tập thể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại qua
tháng năm…, TLđd, tr.320.
[65] Tạp chí “Sư tử vàng”, số 73-74. Theo Tạp chí này, ngoài
13 chuyên gia quân sự hy sinh do bom đạn Mỹ, còn có 3 chuyên gia mất tại Việt
Nam vì bệnh tật. [66]Tập thể tác giả: Chiến tranh Việt Nam: Nhìn lại qua tháng
năm…, TLđd, tr.324.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!