Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại
học Quốc gia Hà Nội
Khởi phát từ mâu thuẫn nội
bộ giữa hai miền Nam - Bắc Triều Tiên, chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) lập
tức bị quốc tế hóa, lôi cuốn vào vòng xoáy sự can dự trực tiếp hoặc gián tiếp
nhiều quốc gia trên thế giới. Là cuộc xung đột cục bộ đầu tiên của thời kỳ
chiến tranh Lạnh, dù đã tạm khép lại, song đây vẫn là sự kiện lịch sử hết sức
phức tạp, nhiều bí ẩn, hàm chứa những mâu thuẫn, tính toán trên nền lợi ích đan
xen đa tầng. Có ảnh hưởng vượt phạm vi khu vực, chiến tranh Triều Tiên trở
thành phép thử bất đắc dĩ trong quan hệ giữa hàng loạt quốc gia bất kể liên
minh hay đối địch.
1- Liên Xô với bức tranh
địa - chính trị Đông Bắc Á
Sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, quan hệ đồng minh Xô- Mỹ nhanh chóng tan vỡ, hai nước chuyển sang cạnh tranh quyết liệt sức mạnh, ảnh hưởng ở cả vũ đài trung tâm (Châu
Âu) lẫn ở vùng ngoại vi (Châu Phi, Châu Á và Trung Đông). Các nhà hoạch định
chính sách Hoa Kỳ nhìn nhận hoạt động củng cố vòng cung an ninh Châu Âu của
Liên Xô như sự thống trị mang tính thù địch với thế giới tư bản, đe dọa đến an
ninh quốc gia của Mỹ; vì thế, tìm kiếm mọi phương thức bao vây, ngăn chặn Liên
Xô.
Mỹ nỗ lực khôi phục khả năng quân sự của Nhật
Bản, biến Nhật Bản thành chỗ đứng chân, bàn đạp để kiềm chế và chống lại Liên
Xô, Trung Quốc. Quan hệ Xô – Mỹ, về bản chất, như Brzezinski nhận xét, thể hiện "sự xung đột kinh điển mang tính lịch sử giữa hai cường quốc, song không đơn thuần là xung đột lợi ích quốc gia, mà là cuộc biểu dương sức mạnh giữa hai hệ tư tưởng với hai
hệ thống chính trị - xã hội vì quyền thống trị thế giới”[1]. Mỹ trở thành đối thủ hàng
đầu, nguy hiểm đối với Liên Xô.
Trong bầu không khí chiến tranh Lạnh đang từng
ngày nóng dần lên, việc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với dân số lớn nhất thế
giới và diện tích đứng thứ ba thế giới ra đời đã làm biến đổi mạnh mẽ bức tranh
địa – chính trị toàn cầu. Sự kiện này lập tức được cả Liên Xô và Mỹ quan tâm.
Đối với Mỹ, nước Trung Hoa mới trở thành nguy cơ trực tiếp cho sự hiện diện
quân sự - chính trị tại Châu Á, thách thức mục tiêu mở rộng không gian chiến
lược và đặt Mỹ trước yêu cầu kiểm soát liên minh Xô - Trung. Giải quyết những
thách thức nêu trên, ngoài sự lựa chọn Nhật Bản, Mỹ không thể bỏ qua Nam Triều
Tiên đang thù địch với Bắc Triều Tiên – vệ tinh quan trọng, tấm
lá chắn, vùng đệm giúp Liên Xô kiểm soát, kiềm chế Nhật Bản – đồng minh quan
trọng của Mỹ.
Về phía Liên Xô, tuy có chung nền tảng tư tưởng mácxit, song từ
trước khi nước Trung Hoa mới ra đời, quan hệ giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và
Đảng Cộng sản Liên Xô đã có dấu hiệu “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”. Tại Hội
nghị Ianta (1945), I.V.Stalin thỏa hiệp với Tưởng Giới Thạch để đổi lấy việc công
nhận độc lập của vùng Ngoại Mông và một số nhượng bộ khác[2]… Trong cuộc nội chiến 1946-1949, nghi ngờ khả năng giành thắng lợi của Đảng Cộng sản Trung
Quốc, Liên Xô chọn vị trí trung lập. Hành động này đã đánh
mạnh vào niềm tin của Mao Trạch Đông và những người Cộng sản Trung Quốc. Đặc
biệt, với tính cách lạnh lùng, luôn hoài nghi, đầy mâu thuẫn, I.V.Stalin chưa
bao giờ tin tưởng ở Mao Trạch Đông - một người, như I.V.Stalin quan niệm, có
quá nhiều tính toán và tham vọng mà I.V.Stalin là người biết rõ hơn ai hết
trong thời gian lãnh đạo Quốc tế Cộng sản III, khi Đảng Cộng sản Trung Quốc là một
bộ phận trực thuộc[3]. Những mâu thuẫn tích tụ, tuy
chưa bùng phát, song cho thấy trên nền ý thức hệ, quan hệ giữa Liên Xô và Trung
Quốc nhiều nghi ngại hơn là tin cậy. Khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời,
tuy khẳng định “thắng lợi của cách mạng Trung Quốc làm thay đổi so sánh lực
lượng có lợi cho cách mạng thế giới”[4], song thực tế, I.V.Stalin đã
hình dung và lo lắng về một cuộc cạnh tranh không mấy dễ chịu. Khả năng hình
thành một trung tâm cách mạng mới trên nền liên minh Trung Quốc - Bắc Triều
Tiên trở thành nỗi ám ảnh đặc biệt “nhạy cảm” đối với I.V.Stalin, nhất là khi câu chuyện Nam Tư[5] còn đang nóng hổi.
Như vậy, quan hệ của Liên Xô với Trung Quốc và
Mỹ - một bên là đồng minh, một bên là đối thủ có chung một điểm tham chiếu với
các cấp độ: Mức 1- kiềm chế, kiểm soát; mức 2 -
làm suy yếu; mức 3 - phụ thuộc (đối với Trung Quốc) và mất khả
năng cạnh tranh vị trí thống trị toàn cầu (đối với Mỹ). Tại thời điểm đó, Đông
Bắc Á trở thành mảnh đất hội tụ lợi ích chiến lược của các cường quốc và là yếu
tố quan trọng quyết định sự cân bằng hay nghiêng lệch địa – chính trị thế giới,
nơi như Liên Xô xác định, thỏa mãn những yêu cầu, điều kiện cho việc giải quyết
những nguy cơ, thách thức tiềm ẩn đối với lợi ích của Liên Xô.
2- Kế hoạch đưa Trung Quốc và Mỹ đụng độ
Từ cuối năm 1948, với sự ra
đời của Đại hàn Dân quốc (8-1948) và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Triều Tiên (9-1948), bán đảo Triều Tiên nóng dần dưới sức ép, quyết tâm thu
giang sơn về một mối của cả hai chính thể. Hai miền Bắc, Nam Triều Tiên đều
tích cực chuẩn bị cho công cuộc thống nhất đất nước thông qua con đường vũ
trang.
Với sự giúp đỡ của các cố
vấn quân sự Liên Xô, từ tháng 1-1950, Kim Nhật Thành đã lên kế hoạch xóa đi vết cắt ngang bán đảo Triều
Tiên mang tên vĩ tuyến 38 bằng “đòn tấn công quân sự bất
ngờ, với hai cánh quân bộ binh bao gồm 9 sư đoàn, trên hai hướng Seoul và Hunchhon, kết hợp với các cuộc
tấn công của lực lượng du kích và các cuộc nổi dậy của quần chúng nhân
dân"[6]. Trong điều kiện kinh tế, quân sự khó khăn và
trong cục diện hai cực Đông – Tây, Kim Nhật Thành tích cực vận động,
thuyết phục I.V. Stalin ủng hộ. Ngay từ đầu, I.V. Stalin tiếp nhận yêu cầu của Kim Nhật Thành
với thái độ dè dặt, trả lời nước đôi: “Một việc lớn như vậy phải được tính toán
hết sức cẩn thận. Cần chuẩn bị để không xảy ra bất kỳ một sơ suất nào”[7]. Chuyến đi bí mật đến Moscow ngày 8-4-1950 của Kim Nhật Thành với bản kế hoạch sơ bộ tấn công Nam Triều Tiên không nhận được câu trả lời dứt khoát. Tháng 4 và nửa đầu tháng
5-1950, Kim Nhật Thành liên tục hối thúc và chờ đợi tín hiệu từ Liên Xô. Trong
điều kiện chiến tranh Lạnh, nếu từ chối ủng hộ mong muốn thống nhất đất nước
của nhân dân Triều Tiên, Liên Xô có thể sẽ bị giảm uy tín trong phong trào giải
phóng dân tộc, Bên cạnh đó, tháng 5-1950, Báo cáo của Ủy ban
An ninh Quốc gia (KGB) cho biết “quá trình quân sự hóa Nhật Bản dưới sự bảo trợ
của Mỹ nhằm chống Liên Xô đang được đẩy mạnh”[8]. Tình hình không cho phép
I.V.Stalin chậm chễ hơn nữa.
Nhận thấy thời điểm thực hiện các kế hoạch đang
đến gần, ngày 14-5-1950, I.V.Stalin gửi điện tín cho Đại sứ Liên Xô tại Bình
Nhưỡng T.F.Shtyucov
nói rõ quan điểm: "Vấn đề giải phóng Triều Tiên phải được bàn bạc kỹ giữa
Bắc Triều Tiên và Trung Quốc. Trong trường hợp Trung Quốc chưa đồng ý, kế hoạch
được lùi lại, chờ thảo luận tiếp"[9]. Ngày 15-4-1950, Đại sứ
T.F.Shtyucov thông báo về Moscow: Kế hoạch của Kim Nhật Thành đã được
Mao Trạch Đông chấp thuận và hứa sẵn sàng can thiệp quân sự trong trường hợp cần thiết. Khi đã chắc chắn với cam kết tham dự chiến tranh
của Trung Quốc, cuối tháng 5-1950, I.V.Stalin quyết định bật đèn xanh cho Kim
Nhật Thành thực hiện kế hoạch thống nhất đất nước. Như vậy, ý định phát động
chiến tranh xuất phát từ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, song nó chỉ
thành hiện thực sau cái gật đầu của I.V.Stalin - lãnh tụ "trung tâm cách mạng thế
giới", còn sự đồng ý của I.V.Stalin chỉ có khi và chỉ khi Mao Trạch Đông lãnh trách nhiệm
tham gia và chi viện cho những người anh em Bắc Triều Tiên.
Về vấn đề Mỹ sẽ tham chiến, I.V.Stalin và Trung
ương Đảng Cộng sản Liên Xô chưa bao giờ hoài nghi. Tại cuộc họp Bộ Chính trị
Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 24-9-1949, khi bàn về vấn đề Triều Tiên,
100 % thành viên nhất trí rằng, khi chiến tranh bùng nổ, Mỹ sẽ thông qua Liên
Hiệp Quốc gửi quân đội hỗ trợ Chính quyền Lý Thừa Văn[10]. Từ tháng 4 đến tháng 6-1950,
diễn ra một số sự kiện liên quan đến chiến lược của Mỹ và vấn đề Triều Tiên
củng cố vững chắc thêm nhận thức của I.V.Stalin. Ngày 19-6-1950, phát biểu tại Quốc hội Hàn Quốc, Giám đốc Office of
Strategic Services (OSS) Allen Dulles tuyên bố: “Mỹ
sẵn sàng hỗ trợ Hàn Quốc cả về tinh thần và vật chất trong cuộc chiến chống Bắc
Triều Tiên”[11]. Trước khi rời Hàn Quốc,
Allen Dulles viết cho Lý Thừa Văn: “Chúng tôi đặt nhiều hy vọng vào vai trò quan
trọng của các bạn trong vở kịch lớn sắp diễn ra”[12]. Ngày 14-4-1950, Ủy ban An
ninh quốc gia Hoa Kỳ cho ra đời văn kiện NSC-68 cho phép “thực hiện những hoạt
động ngăn chặn Kreml đẩy mạnh mở rộng ảnh hưởng”[13]. Có thể khẳng định rằng, việc
Mỹ can dự vào cuộc chiến là chắc chắn, vấn đề còn lại chỉ là thời điểm. Nhà
chính trị dày dặn kinh nghiệm I.V.Stalin hiểu rằng cần thêm một động tác
kích đẩy.
Ngày 25-6-1950, quân đội Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Triều Tiên tấn công Hàn Quốc. Ngày 25-6 và ngày 27-6-1950, diễn ra hai
cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc về vấn đề Triều Tiên. Nắm giữ quyền
phủ quyết (vecto), Đại diện Liên Xô Y.A. Malik được lệnh tẩy chay
cuộc họp[14], tự tước bỏ tấm bùa hộ
mệnh đối với Bắc Triều Tiên trước sự trừng phạt của Liên quân
Liên Hợp Quốc. Nhiều năm nay, giới nghiên cứu thường cho rằng đó là sai lầm đau
đớn của nền ngoại giao Xô viết. Tuy nhiên, bức điện của I.V.Stalin gửi lãnh đạo Tiệp Khắc K.Gottwald
(được giải mật năm 2000) lý giải việc Y.A. Malik rời khỏi Hội đồng
Bảo an không chỉ bác bỏ hoàn toàn nhận định trên, mà còn làm rõ những tính toán
sâu xa của Liên Xô đặt trong quan hệ "sinh tử" với Mỹ và Trung Quốc:
"Tham gia vào chiến tranh Triều Tiên, Mỹ sẽ chôn vùi sức mạnh quân sự và
uy tín quốc tế tại đó. Mỹ buộc phải chuyển trọng tâm chiến lược từ Châu Âu sang
Đông Á, đối đầu trực tiếp với Trung Quốc (...) Trong một thời gian nhất định,
Mỹ không thể gây chiến tranh thế giới thứ ba và điều đó hết sức có lợi cho việc
củng cố hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu"[15].
Trong khung cảnh đối đầu, xung đột của chiến tranh Lạnh, kế
hoạch thống nhất đất nước của Kim Nhật Thành, việc đá quả bóng sang chân Trung
Quốc, tẩy chay có ý thức Hội đồng Bảo an, từ bỏ quyền phủ quyết vào thời
điểm quyết định... chiến tranh Triều Tiên là một tính toán của Liên Xô kéo Bắc Kinh vào cuộc đối đầu với Washington, triệt tiêu khả năng Trung Quốc “nói chuyện” với Hoa Kỳ - điều nếu thành
hiện thực sẽ là một thách thức không dễ vượt qua, nhất là đối với những kế
hoạch củng cố vị thế và tăng cường sức mạnh toàn cầu mà Liên Xô đang ấp ủ. Quả
thật, "Sói
xám" I.V. Stalin già dặn trên đấu
trường quốc tế đã bắn một mũi tên trúng hai đích.
3- Liên Xô đứng sau thế giằng co của cuộc chiến
72 giờ sau khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ,
Mỹ quyết định trực tiếp can thiệp, lôi kéo liên quân 15 nước tham gia, cuộc nội
chiến Triều Tiên trở thành cuộc khủng hoảng quốc tế.
Về phía Trung Quốc, nhận thức về lợi ích an ninh quốc
gia trong bối cảnh xung đột Đông - Tây, khi "các vấn đề trung tâm trong thế giới sau Thế chiến thứ hai là cách mạng vô sản trên phạm vi toàn cầu"[16], lãnh đạo Trung Quốc tin chắc rằng cuộc đụng độ quân sự trực tiếp với Mỹ là
không thể tránh khỏi, vấn đề chỉ là khi nào
và ở đâu. Việc Mỹ gửi Hạm đội 7 đến eo biển Đài Loan càng củng cố quan điểm của
Trung Quốc về “mối đe dọa Hoa Kỳ” với chiến lược mở rộng ảnh hưởng, tiêu diệt
cách mạng Châu Á, bao vây Trung Quốc từ hướng Triều Tiên. Trên nền tảng lý luận
Mác-Lênin về chiến tranh cách mạng, các nhà lãnh đạo Trung Quốc quan niệm,
“trong xung đột Triều Tiên, nếu Trung Quốc không can thiệp, phong trào cách mạng Châu Á và thế giới sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng”[17]. Cốt lõi nhận thức của Trung Quốc về xung đột Triều Tiên và vai trò của Trung Quốc trong cuộc xung đột đã vượt qua lợi ích quốc gia hạn hẹp, vượt qua mục tiêu bảo vệ an ninh biên giới
thông thường, gắn chặt mục tiêu tái khẳng định vị trí trong trật tự quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai, gắn với quan
điểm về tính tất yếu của cuộc cách mạng vô sản ở Châu Á và trên phạm vi toàn thế giới, ở đó, vai
trò của Trung Quốc với tư cách “đầu tàu” cách mạng Phương Đông rất quan trọng.
Vì thế, khi chiến tranh Triều Tiên bắt đầu, Đảng Cộng sản Trung Quốc lập tức
quyết định hoãn kế hoạch giải phóng Đài Loan, tập trung cho vấn đề Triều Tiên.
Tháng 10-1950, khi tình
thế chiến tranh hết sức bất lợi đối với Bắc Triều Tiên, I.V. Stalin hối thúc Mao Trạch Đông chuẩn bị 9 tiểu đoàn
trong tư thế sẵn sàng, tập trung sát biên giới Trung – Hàn, hứa sẽ hỗ trợ không
quân[18]. Ngày 2-10-1950, Mao Trạch
Đông thông báo cho I.V. Stalin sẽ gửi quân đội
sang giúp đỡ Bắc Triều Tiên, dự định "lúc đầu, khoảng
5-7 sư đoàn quân tình nguyện sẽ được đưa tới Triều Tiên"[19] và vào khoảng trung tuần
tháng 11-1950 sẽ có mặt; đồng thời, yêu cầu Liên Xô viện trợ thêm hàng hóa, bảo
vệ biên giới, các khu công nghiệp và quân đội Trung Quốc bằng không quân. Ngày
19-10-1950, Chí nguyện quân Trung Quốc vượt biên giới, trực tiếp tham chiến đấu
trên chiến trường Triều Tiên. Thực hiện thỏa thuận, ngày 1-11-1950, Không quân
Liên Xô tham gia trận chiến đấu đầu tiên[20]. Sau khi Chí nguyện quân
Trung Quốc và Không quân Liên Xô nhập cuộc, cán cân quân sự bắt đầu cân bằng[21], cuộc chiến giằng co, rơi vào
tình trạng bế tắc, việc kết thúc chiến tranh bằng giải pháp chính trị trở nên
cấp thiết. Ngày
10-7-1951, tại Kaesong, đại diện của các bên bước vào đàm phán, tuy
nhiên, diễn tiến đàm phán hết sức chậm chạp. Vào tháng 5-1952, các bên đã đạt
được thỏa thuận trên hầu hết các điều kiện, ngoại trừ số phận của tù nhân chiến
tranh, song phải mất hơn một năm, đến
tháng 6-1953, mới thống nhất được quan điểm để ngày 27-7-1953 ký kết thỏa thuận ngừng
bắn.
Chiến tranh Triều Tiên là
cuộc chiến có khoảng thời gian đàm phán tương đối kéo dài (hai năm) đặt trong
so sánh với toàn bộ chiều dài cuộc chiến (ba năm, hai tháng), bởi "cuộc chiến tranh
giằng co sẽ hạn chế tiềm lực quân sự của Mỹ ở Châu Âu, tiêu hao các nguồn lực
kinh tế và tạo ra những khó khăn chính trị cho Chính quyền H.S.Truman”[22]. Cuộc chiến kéo dài “làm chảy máu nước Mỹ (…) Sau chiến tranh Triều Tiên, người Mỹ sẽ không
còn khả năng tiến hành những cuộc chiến tranh lớn”[23], “làm tăng lên sự thù địch
giữa Mỹ và Trung Quốc, đồng nghĩa với sự gắn
bó ngày càng chặt chẽ giữa Bắc Kinh và Moscow”[24], làm giảm đáng kể sự nhòm ngó của Mỹ và các nước phương
Tây đối với Châu Âu - nơi được mệnh danh là "trái táo bất hòa" giữa
hai cường quốc thế giới Xô - Mỹ, tạo điều kiện để Liên Xô củng cố vững chắc
vùng đệm Đông Âu. Bên cạnh đó, theo lý thuyết tiến hành cách mạng vô sản trên
phạm vi toàn cầu, "chiến tranh Triều Tiên chính là một phần kế hoạch cách
mạng thế giới của I.V Stalin; vì vậy, những cuộc
thương lượng hòa bình chỉ là hình thức"[25].
4- Lợi ích và hệ lụy từ chiến tranh Triều
Tiên
Chính thức, Liên Xô không
tham gia vào chiến tranh Triều Tiên, song cuộc chiến đã tác động
đến Liên Xô trên nhiều phương diện.
Chiến tranh Triều Tiên là
phép thử đối với quan hệ Trung - Xô. Đề nghị hỗ trợ không
quân, bảo vệ Chí nguyện quân từ trên bầu trời của Trung Quốc bị Liên Xô trì
hoãn: "Liên Xô không thể có ngay lực lượng không quân đủ để bảo vệ những
nơi mà Trung Quốc yêu cầu. Liên Xô có thể bảo vệ một số cụm công nghiệp của
Trung Quốc và bảo vệ vùng biên giới Trung Quốc giáp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, nhưng
cần có thời gian chuẩn bị"[26]. Câu trả lời khiến Trung Quốc phải đối diện với một sự thật
tàn nhẫn: Quân đội Trung Quốc sẽ phải chiến đấu mà không có sự đảm bảo từ trên
không, phải thu hẹp phạm vi hoạt động, hạn chế hiệu quả chiến đấu, có khả năng
thương vong cao. Mao Trạch Đông “không còn sự lựa chọn nào khác ngoài cố gắng
nuốt trôi trái đắng của sự phản bội”[27]. Đó cũng là cơ sở để khẳng
định “những mầm mống mâu thuẫn Trung - Xô trong tương lai đã được gieo từ những
ngày đầu tiên hợp tác hai nước trong chiến tranh Triều Tiên”[28]. Trái với mong đợi của Trung
Quốc, Liên Xô không cung cấp viện trợ quân sự không hoàn lại. Sau chiến tranh,
Trung Quốc nợ Liên Xô 650 triệu đô la[29] - đó thực sự là gánh
nặng đối với nền kinh tế Trung Quốc vốn lạc hậu, đang cần nguồn lực phát triển.
Mặc dù Trung Quốc tham chiến chủ yếu bởi các tính toán chiến lược riêng, song
các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn không thể gạt đi cảm giác bất mãn do hành động
và thái độ của Liên Xô. Trung Quốc ra khỏi chiến tranh với nhận thức Liên Xô là một đồng minh
không đáng tin cậy.
Liên Xô thành công trong việc biến Mỹ trở thành
kẻ thù số 1 của Trung Quốc. Hai nước duy trì quan hệ thù địch trong gần 30 năm,
đánh mất cơ hội đối thoại và ngoại giao. Sau chiến tranh, Liên Xô vẫn giữ
nguyên ảnh hưởng ở Bắc Triều Tiên (song ảnh hưởng của Trung Quốc tại đây cũng
lớn dần); đồng thời, nâng cao đáng kể uy tín đối với các nước đang đấu tranh
giải phóng dân tộc. Chiến tranh Triều Tiên tạo ra một lực cọ sát các mối quan
hệ quốc tế của Liên Xô, khiến Liên Xô trở nên có nhiều đối thủ hơn (quan hệ Xô
- Mỹ ngày càng thù địch, quan hệ Xô-Trung xấu đi trông thấy, Liên Xô và Nam
Triều Tiên không thể xích lại gần nhau).
Chiến tranh Triều Tiên là
cơ hội để Liên Xô thử nghiệm một số vũ khí mới, đặc biệt là máy bay chiến đấu MiG-15. Trên chiến
trường Triều Tiên, Liên Xô thu lượm khí tài - chiến lợi phẩm, nghiên cứu chế
tạo, phát triển vũ khí tối tân. Các chuyên gia, cố vấn và phi công Liên Xô tích
lũy nhiều kinh nghiệm chiến đấu bổ ích.
Chiến tranh Triều Tiên phần
nào thay đổi cách nhìn của Liên Xô đối với thế giới, Liên Xô cổ vũ cho chính
sách "chung sống hòa bình" giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội
khác nhau. Tháng 4-1952, I.V Stalin tuyên bố: "Cùng tồn tại hòa bình và
hợp tác giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn có thể, nếu
như hai bên đều có mong muốn và tuân thủ nguyên tắc bình đẳng, không can thiệp
vào công việc nội bộ mỗi bên"[30].
Cuộc chiến tranh
"đã mang đi sinh mạng của 9.000.000 người Triều Tiên, gần 1.000.000 Chí
nguyện quân, 54.246 lính Mỹ, 299 sĩ quan
Liên Xô, để lại thương tật cả đời cho hàng triệu người"[31], khiến mỗi người dân trên bán
đảo Triều Tiên thêm khao khát và trân trọng giá trị của hòa bình. Song, hòa bình không đến dễ dàng từ hy vọng và nguyện vọng. Hòa bình chỉ được xây nên từ nỗ lực của mỗi
người, của cả cộng đồng với sự tỉnh táo, quyết tâm loại trừ chiến tranh và trái
tim biết tha thứ.
[1] Dẫn theo M.M.Narinsky, Lịch sử quan hệ quốc tế, 1945-1975, Nxb Từ điển Bách
khoa chính trị Nga (ROSSPEN), (tiếng Nga), Matxcơva, 2004,
tr.15.
[2] Wang Tingke, "The
Impact of the Yalta System upon the Relationship between Stalin and the Soviet
Union and the Chinese Revolution", Zhonggong dangshi yanjiu,
(Study ofthe CCP History), 1990, p.15.
[3] Liao Ganlong, "The
Relations between the Soviet Union and the Chinese Revolution during the Last
Stage of the Anti-Japanese War and the War of Liberation", Zhonggong
dangshi yanjiu (Study of the CCP History), p.5.
[4] Shi Zhe, "I
Accompanied Chairman Mao to the Soviet Union”, Renwu (Biographical
Journal), No. 2, 1988, p.13.
[5] Tháng 8-1947, Nam Tư lên
kế hoạch thành lập một nhà nước liên bang ở bán đảo Bancăng, thi hành nhiều
biện pháp nhằm thoát khỏi vòng cương tỏa của Liên Xô.
[6] A.V.Okorov, Những
cuộc chiến tranh bí mật của Liên Xô, Nxb Bách khoa toàn thư I, (tiếng Nga), Matxcơva, 2008, tr.169.
[7] Điện của I.V.Stalin
gửi T.F. Stykov, ngày 30-1-1950, Lưu trữ Tổng thống Liên bang Nga, (tiếng
Nga), phông 45, cặp số 1, hồ sơ số 346, tờ số 27.
[8] Ủy ban An ninh Quốc gia, Báo
cáo về tình hình khôi phục tiềm lực quân sự của Nhật Bản, ngày
24-5-1950, Lưu
trữ xã hội – chính trị Nhà nước Liên bang Nga, (tiếng Nga), phông 17, cặp số 37, hồ sơ số 415, tờ 1-112..
[9] Điện của I.V.Stalin
gửi T.F. Stykov, ngày 14-5-1950, Lưu trữ xã hội – chính trị Nhà nước Liên
bang Nga, (tiếng Nga), phông 558, cặp số 11, hồ
sơ số 334, tờ 55.
[10] Biên bản Hội nghị Bộ
Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (b), ngày 24-9-1949, Lưu trữ xã hội – chính
trị Nhà nước Liên bang Nga, (tiếng Nga), phông 17, cặp số 162, hồ sơ số 1078,
tờ 133-141.
[11] Bộ Quốc phòng Liên Xô, Chiến
tranh ở Triều Tiên, 1950-1953, tái bản, (tiếng Nga), XPB, Matxcơva, 2000,
tr.57.
[12] Chiến tranh Triều Tiên, Báo
Ngôi sao đỏ, (tiếng Nga), ngày 14-8-1992.
[13] Foreign relations of
the United States, 1950, State United States Department of State
Office of the Historian, vol. 1, p.237-238.
[14] Với lý do chiếc ghế tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc của Trung Hoa Dân
Quốc (Đài Loan) phải được chuyển sang cho Trung Quốc, nhưng Hội đồng Bảo an đã liên
tục chối từ.
[15] Điện I.V. Stalin gửi
K.Gottwald, ngày 27-8-1950, Lưu trữ xã hội – chính trị Nhà nước Liên
bang Nga, (tiếng Nga), phông 558, cặp số 11, hồ sơ số 62, tờ 71-72.
[16] "Directive of the
Strategy of Struggle Against the U.S. and Jiang, 28 November 1945", United
Front Department and the Central Archives of the CCP, ed., Zhonggong
zhongyang jiefang zhanzheng shiqi tongyi zhanxian wenjian xuanbian,
Beijing: Dang'an chubanshe, 1988, p. 32.
[17] “Telegram, Mao Zedong to
Stalin, 2 October 1950”, Jianguo yilai Mao Zedong wengao,
(Collection of Mao Zedong's Writings after the Establishment of the People's
Republic of China), Beijing: Zhongyang wenxian chubanshe, 1989, vol. 1, pp.
539-540.
[18] Điện I.V. Stalin gửi
Mao Trạch Đông, ngày 5-7-1950, Lưu trữ xã hội – chính trị Nhà nước Liên
bang Nga, (tiếng Nga), phông 558, cặp số 11, hồ sơ số 334, tờ 79.
[19] A.V.Okorov, Những
cuộc chiến tranh bí mật của Liên Xô, Sđd, tr.164.
[20] Điện X.E.Zakharov gửi
I.V.Stalin, ngày 2-11-1950, Lưu trữ Tổng thống Liên bang Nga, (tiếng
Nga), phông 059a, cặp số 5a, hồ sơ số 4, tờ số
178-188.
[21] Blank Spots in
History: In the Skies Over North Korea, JPRS Report, JPRS-UAC-91-004, p. 3
[22] A.V. Smorchkov, Chiến tranh Triều Tiên
1950-1953, Chekist.ru, (tiếng Nga), ngày 29-11-2009.
[23] A.V. Pansov, "Stalin cố tình kéo dài
chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên", (tiếng Nga), Báo
Độc lập, ngày 18-7-2008, tr.5.
[24] A.V. Smorchkov, Chiến tranh Triều Tiên 1950-1953, Tlđd.
[25] A.V. Pansov, Stalin cố tình kéo dài chiến
tranh trên bán đảo Triều Tiên, (tiếng Nga), TLđd, tr.6.
[26] A.V.Okorov, Những
cuộc chiến tranh bí mật của Liên Xô, Sđd, tr.169.
[27] Chen Jian,"The
Sino-Soviet alliance and China's entry into the Korean War”, Cold War International History
Project Bulletin, 6-7,1992, p.18.
[28] Chen Jian, "The
Sino-Soviet alliance and China's entry into the Korean War”, Ibid, p.18.
[29] Zhang
Xiaoming, “China, the Soviet Union, and the Korean War: From an Abortive
Air War Plan to a Wartime Relationship”, Journal of Conflict
Studies, vol 22, N01, 2002, p.81.
[30] Leonid Katsva, Lịch
sử nước Nga (thời kỳ Xô-viết), (tiếng Nga), Nxb Khoa học, Matxcơva, 2000, tr.112.
[31] S.S. Potocki (Chủ biên), Chiến
tranh Triều Tiên, 1950-1953, Tủ sách Nghiên cứu “Tư liệu chiến tranh”, (tiếng Nga), Nxb Poligol, Matxcơva, 2003, tr. 2.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!