Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

LIÊN XÔ VỚI VẤN ĐỀ ĐÀM PHÁN HÒA BÌNH TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM (1968-1973)

Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Trong chiến tranh Việt Nam, cuộc đàm phán hòa bình Paris là một trong những sự kiện quan trọng, phản ánh bước ngoặt của cuộc kháng chiến, là nơi đấu trí, đấu lực gay go, quyết liệt giữa Việt Nam và Mỹ.
Đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, có tiếng nói trọng lượng trên trường quốc tế, tham gia giải quyết hầu hết các vấn đề trọng yếu trên thế giới, Liên Xô tuy không có tên trong thành phần đàm phán Paris, cũng không trực tiếp ký kết vào bất kỳ thỏa thuận nào của cuộc hòa đàm, song lại có vai trò, ảnh hưởng nhất định đối với các bên đàm phán cũng như tiến trình đàm phán.

1. Vấn đề Việt Nam trong quan hệ Xô – Mỹ trước khi Mỹ leo thang chiến tranh
Trên nền cuộc chiến tranh Lạnh, những năm 60 (XX), quan hệ Xô – Mỹ hết sức phức tạp, thay đổi, vận động, lúc ấm, lúc băng giá. Là hai siêu cường, mỗi nước đều có lợi ích chiến lược toàn cầu và khu vực – những lợi ích giao thoa, đụng độ, khiến quan hệ Xô – Mỹ trải qua vô số thăng trầm, sóng gió.
Là những đồng minh bất đắc dĩ trong chiến tranh thế giới thứ hai, sau khi chiến tranh kết thúc, Liên Xô và Mỹ trở thành hai đối thủ cạnh tranh sức mạnh, ảnh hưởng ở cả vũ đài trung tâm (châu Âu) lẫn ở vùng ngoại vi (châu Phi, châu Á và Trung Đông). Gánh vác trách nhiệm chính, chịu những tổn thất, hy sinh to lớn giải phóng Trung, Đông Âu khỏi bàn tay hủy diệt của chủ nghĩa phát-xít, Liên Xô nhanh chóng thiết lập ở đó một thể chế chính trị thống nhất. Để củng cố ảnh hưởng chi phối thế giới, Liên Xô thực hiện chính sách ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, liên kết với những quốc gia mới giành được độc lập đang nổi lên ở các châu lục. Trong khi đó, các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ nhìn nhận “sự thống trị lục địa này (châu Âu- TG) bởi một quốc gia duy nhất và thù địch với Mỹ, có thể đe dọa đến an ninh quốc gia của Mỹ”[1], nhất là khi các lực lượng thân Liên Xô đã hiện diện trên một nửa lục địa và những người cộng sản đang mạnh lên ở Pháp, Italia, Đức… Là cha đẻ của Học thuyết Đômino, Mỹ tăng cường chính sách ở vùng ngoại vi, cảnh giác cao độ với “ảnh hưởng của cộng sản đằng sau những phong trào theo chủ nghĩa quốc gia và xem các quốc gia như những quân bài đômino sẽ “đổ” do ảnh hưởng của Liên Xô”[2]. Học thuyết Đômino đã ngấm sâu vào tư duy chính trị các nhà lãnh đạo nước Mỹ và khởi nguồn cho sự can thiệp đầy thảm họa của Hoa Kỳ vào vùng ngoại vi - điển hình là Việt Nam. Sự cạnh tranh giữa hai cường quốc để có một châu Âu trung thành và những đồng minh từ những nước dân tộc độc lập khiến quan hệ giữa hai nước mang nhiều nét đối kháng, khó dung hòa.
Cuộc khủng hoảng Berlin[3] và Cuba[4] đã cảnh tỉnh Tổng Bí thư Khrushchev và Tổng thống Kennedy về sự cần thiết dần dần bình thường hóa quan hệ  Xô-Mỹ. Bước vào Nhà trắng, tuy có thận trọng hơn trong việc cải thiện quan hệ với Liên Xô, song giữ đúng cam kết khi tranh cử[5], Tổng thống Johnson ủng hộ giảm căng thẳng Xô – Mỹ trên những vấn đề lớn. Trong những tiếp xúc đầu tiên với Khrushchev, khi nhấn mạnh về “vấn đề chính của thời đại hiện nay là đi tìm câu trả lời cho câu hỏi làm thế nào để có thể chung sống hòa bình một cách có lợi nhất”[6], Tổng thống Johnson khẳng định: “Chính phủ Mỹ sẽ tiếp tục đối thoại trực tiếp và trao đổi thông tin với Liên Xô (…) đặc biệt là qua kênh tiếp xúc bí mật”[7]. Như vậy, dưới Chính quyền Johnson, lãnh đạo Liên Xô, Mỹ chủ trương từng bước tiếp tục đẩy mạnh quan hệ hợp tác.
Nhậm chức Tổng thống, Johnson bị lôi cuốn mạnh mẽ vào cuộc chiến tranh  Việt Nam và vấn đề Việt Nam được mang ra bàn thảo trong những cuộc tiếp xúc thiết lập mối liên hệ Xô - Mỹ. Tổng thống Johnson có ý định tách những vấn đề quan hệ với Liên Xô ra khỏi những vấn đề khác trên thế giới, xích lại, cải thiện quan hệ Mỹ - Xô, nhưng vẫn giữ nguyên “quyền tự do can thiệp” và giải quyết những vấn đề ở khu vực ngoại vi, nhất là ở Việt Nam[8].Trong cuộc hội đàm giữa A. Dobrynin với Trợ lý Tổng thống Mỹ Bundy (19-12-1963), khi liệt kê những “vùng” liên quan đến quan hệ hai nước, vấn đề Việt Nam được đề cập. Thừa nhận sự vô vọng cuộc chiến của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, Trợ lý Tổng thống Mỹ Bundy nhấn mạnh quan điểm: “Tổng thống mới không thể bỏ rơi miền Nam Việt Nam, bởi điều đó đồng nghĩa với tự sát chính trị (…) Mỹ sẽ không đồng ý trung lập hóa miền Nam Việt Nam, bởi không có bất kỳ một đảm bảo hiện thực nào chống lại sự can thiệp của miền Bắc vào miền Nam”[9]. Tại thời điểm này, quan điểm của Mỹ về vấn đề Việt Nam khá cứng rắn. Sĩ diện nước lớn không cho phép Mỹ mang tiếng thất bại; vì vậy, “nếu có hai con đường: Hoặc là mất miền Nam Việt Nam, hoặc phải sử dụng các biện pháp quân sự đối với miền Bắc Việt Nam, chắc chắn Tổng thống Johnson chọn con đường thứ hai”[10]. Trước những thông điệp của Mỹ, Liên Xô giữ thái độ khá thận trọng, rất ít có bình luận. Thái độ này của Liên Xô phù hợp với xu thế hòa hoãn Xô – Mỹ, với mức độ chưa gay cấn của chiến tranh Việt Nam. Dưới thời Tổng thống Kennedy, vấn đề Việt Nam chưa trở thành vấn đề rắc rối trong quan hệ Xô – Mỹ. Liên quan đến vấn đề Việt Nam, hai nước chủ yếu dừng lại ở mức độ trình bày quan điểm.
2. Liên Xô với đàm phán hòa bình trong giai đoạn Mỹ leo thang chiến tranh
Từ đầu năm 1964, tình hình Việt Nam bắt đầu nóng dần. Bị vong lục số 288 của Hội đồng An ninh quốc gia Hoa Kỳ cam kết tăng cường sự ủng hộ về tài chính, quân sự và chính trị cho Chính phủ Việt Nam Cộng hòa[11]. Tuy nhiên, Tổng thống Johnson còn khá dè dặt trong hành động, e ngại nếu tấn công miền Bắc Việt Nam có nguy cơ vấp phải sự trả đũa hoặc của Liên Xô, hoặc của Trung Quốc, hoặc của cả hai cường quốc này. Chương trình hành động hạn chế kéo dài không lâu, bởi tình hình miền Nam Việt Nam ngày càng trở nên phức tạp, nếu không có biện pháp kịp thời, quân đội Sài Gòn với tinh thần rệu rã sẽ không thể giữ vững miền Nam. Ngày 7-2-1965, Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc – tiến hành leo thang chiến tranh, bắn một mũi tên nhằm nhiều đích, nhưng trước nhất là “lên giây cót tinh thần cho quân đội Cộng hòa miền Nam Việt Nam, làm cho Hà Nội phải tổn phí nhiều hơn khi tiếp vận quân lực và quân nhu vào miền Nam”[12]. Dội những trận “mưa bom” đánh phá miền Bắc, Tổng thống Johnson theo đuổi chiến lược gia tăng áp lực quân sự từ từ, trong khi tiếp tục thương lượng để đạt đến hòa giải, hy vọng trước áp lực ngày càng gia tăng,“Hà Nội sẽ ngồi vào bàn hội nghị và ngưng ngay cuộc tấn công miền Nam để tránh thiệt hại cho miền Bắc”[13]. Hòa điệu với chiến lược gia tăng áp lực, “Chính quyền Johnson đơn phương 16 lần tuyên bố ngừng thả bom, từ 24 tiếng đồng hồ tới 36 ngày, gửi 72 thông điệp hòa bình”[14]. Con số “16 lần tuyên bố ngừng thả bom”, “gửi 72 thông điệp hòa bình”, một mặt, biểu lộ hy vọng và nhu cầu khẩn thiết của Mỹ về ngừng chiến song phương; mặt khác, cho thấy cuộc chiến dựa trên sức mạnh vật chất mà Mỹ hằng tin tưởng đang đi vào ngõ cụt. Như vậy, sau khi trực tiếp đưa quân tham chiến, đẩy mạnh những nỗ lực quân sự, song cuộc chiến tranh vẫn không đi theo đường ray được vạch sẵn theo mong muốn chủ quan, trong khi phía trước là cả thử thách to lớn của cuộc bầu cử Tổng thống năm 1968, Johnson đã nhận ra giới hạn thời gian cho một thắng lợi dứt điểm đang dần thu hẹp. Lúc này, sự lựa chọn của Tổng thống Johnson là ép Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đàm phán, giải quyết cuộc chiến Việt Nam theo hướng có lợi cho Mỹ.
Như đã trình bày, ban đầu, Johnson và Khrushchev đã cố gắng tách cuộc chiến tranh Việt Nam khỏi các vấn đề của quan hệ Xô-Mỹ, song mọi việc không diễn ra xuôi chiều như đã dự tính. Sự can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến Việt Nam của Nhà trắng; sự thay đổi Ban lãnh đạo ở Liên Xô; Trung Quốc tăng cường viện trợ và quan hệ chặt chẽ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; ảnh hưởng quốc tế ngày càng gia tăng của chiến tranh Việt Nam… đã khiến vấn đề Việt Nam vượt khỏi phạm vi đơn lẻ, đứng ngang hàng với các vấn đề nóng bỏng trên thế giới, dần dần xâm nhập vào quan hệ Xô-Mỹ. Bước phát triển hay thụt lùi trong quan hệ Xô - Mỹ ngày càng bị ràng buộc bởi các chính sách của Mỹ ở Việt Nam. Sau thất bại của cố gắng tìm kiếm giải pháp ngoại giao cho xung đột Việt Nam vào tháng 5-1965, ngày 25-6-1965, Đại sứ Mỹ tại Liên Xô Kohler đề nghị Chính phủ Xô viết “dùng ảnh hưởng của mình tác động, để Hà Nội tiến tới giải pháp hòa bình giải quyết vấn đề Việt Nam”[15]. Liên Xô đã không mấy hào hứng với đề nghị này. Những cố gắng tiếp xúc với quan chức cao cấp của Bộ Ngoại giao Liên Xô, nhằm yêu cầu giúp đỡ, trao đổi thông tin với Bắc Việt Nam của Đại sứ Kohler hoàn toàn thất bại. Sở dĩ các nhà lãnh đạo Liên Xô chưa muốn đứng ra làm trung gian hòa giải giữa Hà Nội - Washington, vì còn chưa nắm được bản chất những  đề nghị của Mỹ, nhất là đề nghị ngừng ném bom đổi lấy đàm phán. Sự cảnh giác của Liên Xô không phải là không có cơ sở. Một vài tháng sau, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ thừa nhận: "Việc ngừng ném bom đầu tiên của chúng tôi để kéo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi tới bàn đàm phán chỉ là một nỗ lực tuyên truyền"[16]. Như vậy, trong chiến tranh Việt Nam, vấn đề đàm phán được đặt ra từ rất sớm, nhưng không thực chất. Vì thế, thời gian đầu, như Đại sứ Kohler nhận xét, “Liên Xô có những bước đi hết sức thận trọng”[17], song cuộc xung đột quân sự ở Việt Nam khiến Liên Xô không yên tâm, nên dần can dự vào tiến trình giải quyết cuộc chiến “bằng biện pháp thương lượng như một đảm bảo tối ưu chống lại việc bị kéo sâu vào chiến tranh”[18]. Mong muốn dàn xếp hoà bình càng sớm càng tốt, Liên Xô đề nghị “triệu tập Hội nghị trên tinh thần Hiệp định Geneve về Việt Nam để nghiên cứu giải quyết tình hình khủng hoảng hiện hành tại Việt Nam”[19], nhưng Việt Nam khước từ, giải thích với lãnh đạo Liên Xô rằng, điều kiện chưa chín muồi để họp một Hội nghị như vậy. Tránh tham gia trực tiếp vào cuộc chiến Việt Nam, tránh đối đầu trực tiếp với Mỹ, nhưng tiếp tục hợp tác để tiến tới một giải pháp chính trị, Liên Xô tiếp tục khuyến khích Việt Nam tiếp xúc với Mỹ trên cơ sở “duy trì vĩ tuyến 17 như là một đường ranh giới"[20], nghĩa là Liên Xô không phản đối sự tồn tại của hai nước Việt Nam với hai chế độ chính trị - xã hội, chấp nhận ở miền Nam Việt Nam thậm chí vẫn tồn tại một lực lượng hạn chế quân sự Mỹ trên lãnh thổ. Nói cách khác, Liên Xô đề nghị Việt Nam giải quyết cuộc xung đột bằng thương lượng trên những điều kiện - về căn bản và thực chất là tương ứng với phạm vi điều chỉnh của Hiệp định Geneve 1954.
Sang năm 1967, Liên Xô tích cực hơn trong việc truyền đạt thông tin tới Việt Nam, cũng như đưa ra các khuyến nghị. Từ tháng 1 đến tháng 3-1967, trong các cuộc gặp gỡ, hội đàm cấp cao Xô – Việt, Liên Xô đề nghị Việt Nam “không nên yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện, vì Mỹ khó chấp nhận, nêu ra không có ích gì, chỉ cản trở thương lượng...”[21], gợi ý “có thể đồng ý xuống thang về hình thức[22] để đánh lừa Mỹ (…)  đáp ứng yêu sách của Mỹ trên nguyên tắc có đi, có lại (…) miền Bắc Việt Nam chấm dứt đưa quân chiến đấu vào miền Nam, rút quân khỏi miền Nam”[23]. Ngày 27-10-1968, Liên Xô chuyển cho Việt Nam thư của G. Hall khuyên Việt Nam nên hạn chế hoạt động quân sự ở miền Nam[24]. Theo thống kê của Việt Nam, với vai trò trung gian không chính thức, từ năm 1965 đến năm 1968, Liên Xô đã 24 lần truyền đạt đề nghị và điều kiện đàm phán của Mỹ cho Việt Nam[25].
Chủ trương giải quyết vấn đề ngừng ném bom miền Bắc trước, vấn đề miền Nam sau, giải quyết vấn đề quân sự ở miền Nam trước, vấn đề chính trị sau, Liên Xô không ngừng thuyết phục dư luận thế giới, Chính phủ các nước tán thành việc chấm dứt oanh tạc miền Bắc Việt Nam và gây sức ép đối với Mỹ. Tôn trọng quyền tự quyết, tính độc lập, tự chủ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khi Chính quyền Johnson yêu cầu Liên Xô gây áp lực với Hà Nội chấp nhận đàm phán, trước sau, Liên Xô đều kiên quyết: “Liên Xô không có thẩm quyền và không thể đàm phán đại diện cho miền Bắc Việt Nam. Tình hình Việt Nam phải được thảo luận với Chính quyền Bắc Việt Nam”[26]. Ủng hộ Tuyên bố bốn điểm[27] của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh giá đó là một tuyên bố hợp lý, có thể coi đó là cơ sở để bắt đầu đàm phán, Liên Xô khẳng định: “Sẽ không đạt được bất kỳ tiến bộ nào nếu cách giải quyết vấn đề Việt Nam trong thời gian tới vẫn được trình bày bằng những thuật ngữ "xúc phạm" như trước đó vẫn thường xảy ra”[28].
 Cần lưu ý rằng, tuy không có những tuyên bố mạnh mẽ để tránh làm phức tạp thêm tình hình, song phản ứng thực tế của Liên Xô đối với hành động leo thang chiến tranh, đối với các yêu cầu đàm phán không thực chất, mang tính tuyên truyền đánh lừa dư luận của Mỹ là khá rõ rệt: “Hoạt động leo thang quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam không phù hợp với yêu cầu tiếp tục cải thiện quan hệ Xô –Mỹ”[29]. Liên Xô coi đó là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ Xô – Mỹ đang tiếp tục khởi động và điều đó khiến Mỹ lo ngại. Tại cuộc hội đàm với Đại sứ Mỹ Kohler (21-7-1965), khi được hỏi về khả năng tổ chức một hội nghị cấp cao về các vấn đề hạt nhân, Thủ tướng Kosygin trả lời dứt khoát: “Điều đó chỉ xảy ra khi vấn đề Việt Nam không còn trong chương trình nghị sự. Cần có một hội nghị như thế, song chỉ sau khi đạt được một thỏa thuận chính trị về Việt Nam. Cần phải nhanh chóng kết thúc chiến tranh Việt Nam”[30]. Bàn về các lĩnh vực khác trong quan hệ Mỹ - Xô, Thủ tướng Kosygin không ít hơn một lần khẳng định: “Chúng tôi muốn phát triển quan hệ hợp tác, không muốn giới hạn hay phá bỏ, song vấn đề Việt Nam không thể không có ảnh hưởng (…) Nhà nước Xô viết làm tất cả để tăng cường quan hệ với Mỹ và hy vọng Mỹ cũng sẽ làm tất cả để chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam”[31]. Nhận xét về thái độ của Thủ tướng Kosygin trong giải quyết xung đột ở Việt Nam, Đại sứ Kohler phải thán phục thốt lên: “Tôi kính trọng sự thẳng thắn và chân thành của ông ấy (Kosygin- TG)”[32]. Đại sứ Kohler báo cáo với Bộ Ngoại giao Mỹ: “Rõ ràng là Chính phủ Liên Xô đang “đóng băng” quan hệ Xô- Mỹ vì những vấn đề đang diễn ra ở Việt Nam”[33]; “Chính phủ Liên Xô thể hiện sự không hài lòng khi một mặt Mỹ nói đến cải thiện quan hệ Mỹ - Xô, mặt khác lại tấn công các nước xã hội chủ nghĩa”[34]. Thực vậy, toàn bộ những trù tính về hệ thống hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Xô có nguy cơ bị phá sản. Toàn bộ hệ thống hội nghị bị “đông cứng” lại và “khởi động chậm chạp bởi những lời chỉ trích của Liên Xô đối với chiến dịch ném bom miền Bắc Việt Nam”[35]. Như bình luận của Đại sứ Mỹ Kohler, từ chỗ rất nhỏ, vấn đề Việt Nam và đàm phán hòa bình giải quyết chiến tranh Việt Nam “lớn dần, chi phối nhiều lĩnh vực quan hệ quốc tế quan trọng (…) thành trở ngại cho việc giải trừ quân bị, vũ khí hạt nhân và các vấn đề tương tự[36]. Quan điểm, thái độ đó của Liên Xô đã tác động có lợi cho Việt Nam trong tiến hành chiến tranh, đặc biệt là vào các thời khắc Mỹ đẩy mạnh hoạt động quân sự đến các giới hạn tận cùng của sự khốc liệt.
Nhìn chung, trong giai đoạn Mỹ leo thang chiến tranh, tuy không hành động  với tư cách người hoà giải chính thức, nhưng Liên Xô đã có những đóng góp tích cực, tạo ra cơ hội quan trọng cho Mỹ và Việt Nam ngồi vào đàm phán, cũng như bắt đầu các cuộc đàm phán. Lo lắng, thấy rõ mối hiểm hoạ đổ vỡ trong quá trình hội đàm, thấy trước triển vọng thắng cử của R.Nixon – một nhân vật theo đánh giá của các nhà lãnh đạo Liên Xô là “hết sức khó lường”[37], Liên Xô mong muốn đạt được một hiệp định giữa Washington - Hà Nội và “can thiệp vào tất cả những vấn đề có thể làm chậm hoặc thậm chí làm gián đoạn tiến trình ký kết hiệp định”[38]. Dính líu sâu vào cuộc hòa đàm, lãnh đạo Liên Xô bàn bạc, yêu cầu các quan chức ngoại giao ở Paris, Washington và Hà Nội nghiên cứu tìm kiếm khả năng thoả hiệp giữa các bên đàm phán, cố gắng hoà giải, dung hòa quan điểm các bên, thúc đẩy Mỹ và Việt Nam đưa ra những nội dung cơ bản cho hiệp định cuối cùng. Đến cuối năm 1968, Liên Xô tỏ quyết tâm cao độ giúp đỡ Washington tìm kiếm một giải pháp toàn bộ cho cuộc chiến tranh thông qua Hội đàm Paris.
3. Liên Xô với đàm phán hòa bình trong giai đoạn Mỹ xuống thang chiến tranh
Mặc dù những đề nghị đàm phán đến với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tương đối sớm, song phân tích, cân nhắc so sánh lực lượng, những yếu tố khách quan, chủ quan, đầu năm 1967, Hội nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 13 mới quyết định đưa cuộc kháng chiến sang một giai đoạn mới: Vừa đánh, vừa đàm - “có nghĩa là trong khi ở miền Nam vẫn tranh thủ đánh để giành thắng lợi quyết định thì giữa ta và địch có thể nói chuyện từ hình thức tiếp xúc cho đến hội đàm”[39]. Thực hiện sách lược “đánh - đàm”, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức những đợt hoạt động, những cuộc tiến công chiến lược, nhằm làm xoay chuyển cục diện chiến trường, giáng một đòn vào ý chí xâm lược của Mỹ, kéo Mỹ xuống thang chiến tranh. Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Mậu Thân 1968 là một đòn chiến lược như thế, táo bạo, bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam. Mậu Thân 1968 trở thành khúc quanh bi thảm đối với quân đội Mỹ và Chính quyền Sài Gòn, khiến “Tổng Thống Johnson ngày càng thêm bi quan về cuộc chiến”[40]. Điều phải xảy ra đã không thể không xảy ra - đêm 31-3-1968, Tổng thống L.Johnson tuyên bố: Mỹ đơn phương chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, sẵn sàng cử đại diện đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, quyết định rút dần quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Quyết định được đưa ra khi chưa một mục tiêu nào của cuộc chiến tranh được thực hiện, trở thành tiếng chuông báo trước về một sự nghiệp Tổng thống bị đổ vỡ. Quả thực, năm 1969, bước vào Nhà trắng là một nhân vật mới - R.Nixon, với một nhiệm kỳ Tổng thống hứa hẹn những điều không dễ dàng.
Tuy không phải gánh vác trách nhiệm về chiến tranh Việt Nam như Tổng thống tiền nhiệm, song khi tiếp quản di sản để lại với sự sa lầy vô vọng, R.Nixon buộc phải đặt cao nhiệm vụ tìm lối thoát kết thúc cuộc chiến với ít đau đớn, thua thiệt nhất. Do vậy, từng bước xuống thang chiến tranh, Mỹ tích cực tìm kiếm sự ủng hộ của Liên Xô trong giải quyết xung đột Việt Nam. Vai trò quan trọng thuyết phục Liên Xô tích cực hơn nữa trong dàn xếp các cuộc đàm phán Việt – Mỹ, nhất là các cuộc đàm phán bí mật, thuộc về Thống đốc Harriman - người luôn tin rằng, con đường dẫn đến hoà bình ở Đông Dương nhất định phải đi qua Moscow. Về mặt công khai, “Kreml nhiều lần từ chối mọi đề nghị làm trung gian trong đàm phán về Việt Nam”[41], song trong tình thế các cuộc đàm phán được chính thức bắt đầu từ tháng 5-1968 bế tắc, dẫm chân tại chỗ, giống như trước đây, Liên Xô đã đảm nhận vai trò trung gian không tuyên bố, kết nối các bên đàm phán, tránh xuất hiện không chính thức hay hợp thức. Từ năm 1969 đến năm 1972, trong vai trò trung gian không chính thức, Liên Xô 28 lần chuyển cho Việt Nam các điều kiện đàm phán của Mỹ[42]. Tính chất không chính thức của “vai trò dàn xếp, kết nối”, một mặt, vừa có thể giúp Liên Xô thực hiện mục tiêu tăng cường ảnh hưởng không chỉ đối với khu vực Đông Nam Á, phong trào cộng sản quốc tế, mà còn với đối thủ lâu đời “ngang tài, ngang sức” Hoa Kỳ; mặt khác, tránh xa mọi trách nhiệm, những hiểm họa và bổn phận nhất định.
Giữa tháng 2-1969, gửi đến Chính quyền Nixon thông điệp về các vấn đề hòa bình và hợp tác quốc tế trên tinh thần “thực hiện sứ mệnh bảo vệ hoà bình, song như tất cả các quốc gia khác tham gia vào quan hệ quốc tế, các nước lớn phải tôn trọng quyền dân tộc của các quốc gia khác, dù lớn, dù nhỏ”[43], đề cập đến vấn đề Việt Nam, Liên Xô tuyên bố: “Việc giải quyết mặt chính trị của cuộc chiến tranh Việt Nam trên cơ sở tôn trọng nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam và rút hoàn toàn quân đội Mỹ khỏi lãnh thổ Việt Nam sẽ ảnh hưởng một cách tích cực đến quan hệ  Xô - Mỹ[44]. Liên Xô tỏ thái độ hết sức hoan nghênh cuộc đàm phán Paris, hy vọng về những bước tiến mới với kết quả tích cực, điều đó – như Liên Xô khẳng định là hoàn toàn hiện thực “nếu có sự đánh giá đúng đắn các lực lượng chính trị hoạt động tại Việt Nam và thừa nhận quyền hợp pháp, bình đẳng của các lực lượng ấy tại bàn đàm phán”[45].
Cùng với những tuyên bố cứng rắn, Liên Xô cũng hé lộ khả năng về “vai trò hòa giải, dàn dựng” trong bước tiếp theo của các cuộc đàm phán[46]. Nhanh chóng nắm bắt “nhã ý” của Liên Xô, cuối tháng 2-1969, Kissinger thông báo với Dobrynin: “Tổng thống Mỹ mong muốn có mối liên hệ bí mật, chặt chẽ với Liên Xô trong giải quyết cuộc xung đột Việt Nam và tìm kiếm một kết cục đảm bảo danh dự cho tất cả các bên”[47]. Từ tháng 2 đến tháng 5-1969, Mỹ liên tục phát tín hiệu sẽ gắn liền các cuộc thương lượng về vũ khí hạt nhân, về mở rộng hợp tác thương mại với Liên Xô cùng “sự tiến bộ” trong giải quyết vấn đề Việt Nam, thậm chí hứa hẹn sẽ đi trước một bước mở đường thiết kế các cuộc đàm phán cấp cao Mỹ -Xô, nhưng “kết thúc chiến tranh Việt Nam chính là chìa khóa của quá trình đó”[48]. Ghi nhận vai trò ngày càng trở nên quan trọng của Liên Xô đối với vấn đề Việt Nam, từ cuối năm 1969, Tổng thống R.Nixon không dưới một lần “nhắc nhở” Liên Xô rằng, những tiến bộ trong các lĩnh vực hợp tác Xô – Mỹ “phụ thuộc một phần quyết định vào mức độ nỗ lực của Liên Xô trong giải quyết cuộc xung đột Việt Nam”[49].
Để đạt mục đích, không ít lần, Mỹ gây áp lực với Liên Xô: “Liên Xô, tất nhiên, có quyền làm tất thảy những gì cho là cần thiết, song nếu từ chối hỗ trợ Hoa Kỳ giải quyết vấn đề Việt Nam, Hoa Kỳ hoàn toàn có thể cho phép mình quyền tự do hành động”[50]. Tổng thống R. Nixon giải thích: “Nếu cuộc chiến tranh Việt Nam tiếp diễn, Liên Xô chỉ mất “vài đồng bạc lẻ”, còn với nước Mỹ, trị giá cuộc chiến tranh được đo bằng vô số sinh mạng con người”[51]. Trong điều kiện các cuộc đàm phán hòa bình về Việt Nam đã bắt đầu, song trì trệ, bế tắc, để tăng áp lực, buộc Liên Xô sử dụng ảnh hưởng thúc đẩy đàm phán, tháng 10-1969, thậm chí Tổng thống R.Nixon đã đưa ra kế hoạch hạt nhân mang mật danh Ngọn giáo khổng lồ[52] - kế hoạch trên nền tảng “học thuyết người điên”[53], hy vọng dấu hiệu có vẻ như mất lý trí của Hoa Kỳ có thể sẽ “gây chấn động đối với Liên Xô và Bắc Việt Nam”[54].
Trong suốt năm đầu tiên (và trong cả những năm còn lại) của nhiệm kỳ Tổng thống, như Dobrynin nhận xét, vấn đề chính yếu nhất, “vấn đề số một đối với R.Nixon hiện giờ là kết thúc chiến tranh Việt Nam. Mọi vấn đề còn lại được xếp xuống vị trí thứ hai”[55], có lẽ vì thế, thường trực trong các cuộc hội đàm, gặp gỡ với đại diện Chính phủ Liên Xô, một mặt, Mỹ tỏ ý không hài lòng về việc Liên Xô hậu thuẫn, viện trợ ngày càng tăng cho miền Bắc Việt Nam; mặt khác, gắn cải thiện quan hệ Xô – Mỹ với đề nghị Liên Xô tăng cường vai trò thúc đẩy đàm phán hòa bình. Trước yêu cầu cấp bách phải thoát ra khỏi cuộc chiến tranh “hao người, tốn của”, khác với nhiệm kỳ Tổng thống Johnson, dưới Chính quyền R. Nixon, Hoa Kỳ và Liên Xô đã đổi vai: Chính Mỹ, chứ không phải Liên Xô, đã luôn gắn vấn đề Việt Nam với cải thiện quan hệ Xô – Mỹ. Nó cách khác, vấn đề cải thiện quan hệ, đẩy mạnh hợp tác Mỹ - Xô trong các kế hoạch mới của Chính quyền R.Nixon kết bện chặt chẽ với yêu cầu Liên Xô nhanh chóng dàn xếp ngoại giao với miền Bắc Việt Nam.
Về phía mình, Liên Xô khẳng định “sự quan tâm đối với việc giải quyết một cách nhanh chóng cuộc xung đột Việt Nam bằng đàm phán hòa bình trên cơ sở tôn trọng quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam”[56], cam kết: “Liên Xô đã, đang và sẽ đóng một vai trò tích cực để chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam một cách nhanh nhất”[57]. Trong các cuộc thảo luận với đại diện phía Mỹ, hoặc với chính Tổng thống R.Nixon, Đại sứ Dobrynin tỏ rõ quan điểm: Liên Xô có ảnh hưởng đáng kể đối với Hà Nội, “song, ảnh hưởng ấy chỉ được phát huy đẩy nhanh tiến trình đàm phán hòa bình khi và chỉ khi Hoa Kỳ có nhận thức và cách tiếp cận nghiêm túc, đúng đắn về kết thúc chiến tranh Việt Nam”[58]. Liên Xô nghiêm túc cảnh báo Mỹ: “Phương thức quyết vấn đề Việt Nam bằng sức mạnh quân sự chẳng những không có tương lai, mà còn hết sức nguy hiểm”[59]. Mặt khác, thúc ép bởi yêu cầu cải thiện quan hệ và tránh đụng độ với Mỹ, ở một số thời điểm, Liên Xô có những đề nghị hơi xa quan điểm của Việt Nam: Tháng 3-1970, khi tình hình Campuchia căng thẳng, Liên Xô hai lần yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi Campuchia; tháng 4-1972, Liên Xô gợi ý Việt Nam gây sức ép “buộc Mỹ phải rút hết trước bầu cử Tổng thống Mỹ, còn các vấn đề chính trị, tiếp tục đấu tranh đòi giải quyết theo lập trường của ta”[60]… Lập trường của phía Việt Nam có thể khái quát ngắn gọn: “Sẽ đánh bại Nixon như đã đánh bại Johnson”[61]; “tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên Xô, mong muốn Liên Xô cùng Việt Nam thắng Mỹ”[62].
Đến giữa năm 1972, đàm phán trên bàn Hội nghị Paris giữa Việt Nam và Mỹ diễn ra căng thẳng, quyết liệt, nhưng hầu như không có tiến triển. Tìm kiếm biện pháp đối phó, Tổng thống R. Nixon quyết định thực hiện chiến dịch ngoại giao con thoi với Trung Quốc, Liên Xô, thực hiện mục tiêu “phá vỡ mối quan hệ của Hà Nội với hai cường quốc cộng sản[63], khoét sâu sự chia rẽ giữa Moscow và Bắc Kinh, biến sự chia rẽ ấy thành công cụ đắc lực giúp R.Nixon chấm dứt chiến tranh Việt Nam thông qua thương lượng. Tháng 5-1972, cuộc gặp thượng đỉnh Xô – Mỹ diễn ra tại Moscow. Việt Nam phản ứng khá mạnh mẽ trước sự kiện này, tuy nhiên, trên thực tế, tình hình không bi đát như Việt Nam mường tượng. Do vấn đề Việt Nam quá nhạy cảm, gay cấn nên Liên Xô và Mỹ không đưa ra bàn sâu tại các phiên toàn thể, dành nêu trong cuộc gặp không chính thức. Trong cuộc gặp bên lề Hội nghị, các nhà lãnh đạo Liên Xô phê phán Mỹ mạnh mẽ, lên án gay gắt các hành động leo thang quân sự của Mỹ. Không khí cuộc thảo luận, như H. Kissinger miêu tả,“đôi khi lên tới mức quá khích”.
Sự giằng co, những diễn biến phức tạp trên bàn đàm phán Hội nghị Paris báo hiệu về khả năng Mỹ tăng cường chiến tranh ở miền Nam Việt Nam và có những hành động quân sự quyết liệt hơn đối với miền Bắc. Quả nhiên, để bắt Việt Nam phải nhân nhượng thêm, từ tối 18- 12 đến 30-12-1972, Mỹ dùng máy bay B52 ném 10 vạn tấn bom đạn xuống các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, trọng tâm là Hà Nội, Hải Phòng. Song, Mỹ đã nhầm lẫn trong tính toán: Mỹ đương đầu với một đối phương không đơn thuần chiến đấu bằng sức mạnh quân sự, mà còn chiến đấu bằng ý chí kiên cường, tinh thần tự tôn dân tộc. Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” – kết quả của lòng quả cảm, nội lực Việt Nam đã làm tan vỡ nỗ lực cuối cùng sử dụng sức mạnh huỷ diệt để đạt được mục tiêu “đàm phán trên thế mạnh” của Chính quyền Mỹ. Trong tư thế của người chiến thắng, ngày 8-1-1973, nhà ngoại giao Lê Đức Thọ và Xuân Thủy trở lại bàn đàm phán. Ngày 27-1-1973, diễn ra lễ ký kết chính thức Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam - sự kiện làm nức lòng nhân dân tiến bộ thế giới, bạn bè đồng minh và nhân dân Việt Nam. Liên Xô là một trong những nước đầu tiên bày tỏ vui mừng sâu sắc trước sự kiện Hiệp định Paris được ký kết, bởi trong thắng lợi đó, có sự góp công, góp mặt không nhỏ của nhân dân và Chính phủ Liên Xô.
*                                 *
*
40 năm qua đi kể từ ngày ký kết Hiệp định Paris, kết thúc một cuộc hòa đàm dài ngày trong lịch sử, mang lại cơ hội chấm dứt cuộc chiến tranh tàn khốc đẩy nước Mỹ lún sâu vào thảm bại – những thảm bại mà người Mỹ vẫn luôn tìm cách lý giải từ ngày cuộc chiến ngưng tiếng súng đến tận hôm nay. 40 năm nhìn lại – thời gian lắng lại, đủ để suy ngẫm, nhìn nhận, đánh giá, phân tích và phân tách nhiều vấn đề thuộc về hoặc liên quan đến cuộc hòa đàm thế kỷ, nhận chân những góc phần còn khuất. Trong những ký ức và vấn đề lịch sử, vai trò của Liên Xô đối với đàm phán hòa bình, giải quyết chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp tục được đào sâu, nghiên cứu và không khỏi có ý kiến đa chiều. Có điều, nhìn lại suốt tiến trình, có thể nhận ra một hiện thực khách quan: 1-Với vai trò trung gian không chính thức, tuy có sử dụng lợi thế đối với cả Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa can thiệp vào tiến trình đàm phán Paris, tìm cách phát triển ảnh hưởng, song thái độ của Liên Xô đối với Việt Nam không mang nhiều sắc thái bảo hộ hay áp đặt, chủ yếu là trao đổi trên tinh thần cố gắng thấu hiểu, thuyết phục để đi tới đồng thuận; 2-Liên Xô muốn giải quyết cuộc đàm phán hòa bình, kết thúc chiến tranh Việt Nam phù hợp theo cách nhìn nhận và lợi ích của mình, song quan điểm của Liên Xô không quá xa, mà căn bản thống nhất với các trù định của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; 3- Nắm bắt những thời điểm quan trọng, thực hiện sách lược đánh – đàm tự chủ, linh hoạt, vượt qua mọi trở ngại từ đối phương, cũng như đồng minh, người Việt Nam tuy không khởi đầu chiến tranh, song biết dẫn dắt và kết thúc chiến tranh để tiến tới nền hòa bình hằng mong đợi.
Download toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC
 


[1],[2]Michael J. Friedman: Chiến tranh lạnh- Một cuộc kiểm tra đối với sức mạnh và sự thử thách đối với các ý tưởng của Hoa Kỳ, Tạp chí điện tử, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 4-2006.
[3] Chỉ trong một đêm (13-8-1961), biên giới giữa hai phần Berlin bị đóng. Hàng ngàn người bị tách rời khỏi gia đình, công việc và nhà cửa. Bức tường Berlin chia thành phố ra thành Tây Berlin và Đông Berlin.
[4] Sau khi Mỹ triển khai tên lửa Jupiter trên đất Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Liên Xô bí mật đặt tên lửa mang đầu đạn hạt nhân ở Cuba (10-1962) và khi Mỹ phát hiện ra sự việc, đã tuyên bố xem xét việc tấn công Cuba bằng không lực, hải lực, tiến hành "cách ly" Cuba bằng quân sự. Cuba khuyến khích Khrushchev mở một cuộc tấn công hạt nhân đánh phủ đầu Hoa Kỳ. Ngoài mặt, Liên Xô và Hoa Kỳ tỏ ra không nhân nhượng trước những đòi hỏi công khai, nhưng tại các cuộc tiếp xúc bí mật đều tính đến giải quyết ổn thỏa để tránh chiến tranh hạt nhân. Cuối cùng cuộc khủng hoảng kết thúc vào ngày 28-10-1962 với sự nhân nhượng của cả hai phía.
[5]Ý thức sự nguy hiểm của cuộc khủng hoảng hạt nhân, trước  tâm trạng lo ngại của đa số nhân dân Mỹ trước nguy cơ chiến tranh hạt nhân sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, trong chương trình tranh cử, Johnson cam kết cải thiện quan hệ Mỹ - Xô nếu trúng cử Tổng thống.
[6] Добрынин Анатолий:  Сугубо доверительно, Изд. “Автор”, Москва, 1996, c. 130.
[7] Добрынин Анатолий:  Сугубо доверительно, Sđd, c. 148. 
[8] Добрынин Анатолий:  Сугубо доверительно, Sđd, c. 136.
[9] Добрынин Анатолий:  Сугубо доверительно, Sđd, c. 151.
[10] Добрынин Анатолий:  Сугубо доверительно, Sđd, c. 169.
[11]National Security Action Memorand 288: Implementation of South Vietnam Programs, Johnson Library, National Security File, NSAMs. Secret.
[12] R.Nixon: No More Vietnams, Arbor House, 1985, p.188. 
[13] R.Nixon: No More Vietnams, Sđd, p.189.[14] R .Nixon: No More Vietnams, Sđd, p.201.
 [15]Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, June 25, 1965, National Archives and Records Administration, RG 59, Conference Files: Lot 66 D 347, CF 86. Confidential, Document 115.
[16] И. В. Гайдук,  Советский Союз и война во Вьетнаме, Sđd, c. 147.
[17]Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, August 20, 1965, National Archives and Records Administration, RG 59, Central Files 1964–66, POL 27 VIET S. Secret, Document 121.
[18]Douglas Pike: Alliance politics between comrades: The dynamics of Soviet-Vietnamese relations, RAND/UCLA Center for the Study of Soviet International Behavior, 1987, p.36.
[19] Jeffrey Kimball: The Vietnam War Files: Uncovering the Secret History of Nixon-Era, Sđd, p.36.
[20] И. В. Гайдук,  Советский Союз и война во Вьетнаме, Sđd, c. 118.
[21] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (7-1954 đến tháng 4-1975), tài liệu lưu tại Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 38-39.
[22] Ngày 25-4-1968, Kosygin nói với Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Cố nhiên Mỹ không thể chấm dứt 100% việc bắn phá miền Bắc nếu nó không được gì. Chắc chắn nó sẽ đòi các đồng chí không được chi viện người và vũ khí cho miền Nam. Có thể đây chỉ là hình thức. Các đồng chí sẽ lợi dụng đêm tối, lợi dụng việc nó ngừng ném bom, dù chỉ là bộ phận để tiếp tục công việc vận chuyển. Mỹ sẽ biết, nhưng nó không có cách nào khác và như vậy có thể đi đến hai bên thỏa thuận được với nhau (Nguồn: Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (7-1954 đến tháng 4-1975), Tlđd, tr. 40).
[23] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (7-1954 đến tháng 4-1975), Tlđd, tr. 39.
[24] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (7-1954 đến tháng 4-1975), Tlđd, tr. 37.
[25] Năm 1965: sáu lần, 1966: ba lần, 1967: ba lần, 1968: mười hai lần. Đó là chỉ kể những trường hợp Liên Xô truyền đạt với Việt Nam qua Đại sứ ở Hà Nội hoặc ở Paris (Nguồn: Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (7-1954 đến tháng 4-1975), Tlđd, tr. 37)
[26]Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, June 25, 1965, Document 115, Tlđd.
[27]1- Chính phủ Mỹ phải rút quân khỏi Nam Việt Nam, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam; 2- tôn trọng quyết định Hiệp định Geneva 1954 về Việt Nam, hai miền Nam, Bắc Việt Nam không tham gia liên minh quân sự với nước ngoài, không phải đặt căn cứ quân sự nước ngoài trên vùng lãnh thổ của mình; 3- Công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam phải được giải quyết bởi nhân dân miền Nam, không có sự can thiệp của nước ngoài; 4- Việc thống nhất đất nước của Việt Nam phải được giải quyết bằng người dân hai miền Nam, Bắc, không có bất kỳ sự can thiệp nước ngoài (Nguồn: American Foreign Policy: Current Documents, 1965, page 852).
[28]Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, June 25, 1965, Document 115,Tlđd.
[29]Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, June 25, 1965, Document 115,Tlđd.
[30]Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, July 21, 1965, Department of State, Kohler Files: Lot 71 D 460, Telegrams. Secret; Immediate, Document 119.
[31] Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, July 21, 1965, Document 119, Tlđd.
[32] Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, July 21, 1965, Document 119, Tlđd.
[33]Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, August 20, 1965, Document 121, Tlđd.
[34]Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, August 20, 1965, Document 121, Tlđd.
[35]Alexander DeConde, Richard Dean Burns, and Fredrik Logevall: Encyclopedia of American Foreign Policy, Charles Scribner’s Sons An imprint of the Gale Group,New York, Vol.3, p.214.
[36] Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, July 21, 1965, Document 119, Tlđd.
[37] Tiểu sử cá nhân của Nixon khiến Liên Xô nghi ngờ. Vị Tổng thống mới này được biết ở Liên Xô như là một kẻ chống cộng và "chống Liên Xô" điên cuồng. Ông ta bị coi là một kẻ "diều hâu" và kẻ gây chiến tranh Lạnh trong quan hệ với thế giới cộng sản.
[38] И. В. Гайдук,  Советский Союз и война во Вьетнаме, Sđd, c. 154.
[39] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tập 28, tr. 123.
[40] R.Nixon: No More Vietnams, Arbor House, 1985, p.189.
[41] И. В. Гайдук,  Советский Союз и война во Вьетнаме, Sđd, c. 158.
[42] Năm 1969: tám lần, 1970: ba lần, 1971: ba lần và 1972: mười bốn lần. Đó là chỉ kể những trường hợp Liên Xô truyền đạt với Việt Nam qua Đại sứ ở Hà Nội hoặc ở Paris mà Vụ Liên Xô nắm được, chưa kể những lần truyền đạt thông qua các cuộc tiếp xúc cấp cao  (Nguồn: Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (7-1954 đến tháng 4-1975), Tlđd, tr. 37).
  [43]Note From Soviet Leaders to President Nixon, Moscow February 17, 1969, National Archives, Moscow Nixon Presidential Materials, NSC Files, Box 340, Subject Files, USSR Memcons Dobrynin/President 2/17/69, Document 15. 
[44] Note From Soviet Leaders to President Nixon, February 17, 1969, Document 15, Tlđd.
[45] Note From Soviet Leaders to President Nixon, February 17, 1969, Document 15, Tlđd.
[46] Memorandum of Conversation, Washington, February 17, 1969, National Archives, RG 59, Central Files 1967–69, POL 1 US–USSR. Secret; Nodis.
 [47]Memorandum of Conversation (USSR), Washington, February 21, 1969,   Opening the Chanel, February – December, 1969, AVP RF, f. 0129, op. 53, p. 399, d. 5, l. 75–86. Secret. 
 [48]Memorandum of Conversation (USSR), AVP RF, f. 0129, op. 53, p. 399, d. 6, l. 44–50. Secret. 
 [49]Memorandum of Conversation (USSR), N0 34, Tlđd. 
 [50]Memorandum of Conversation (USSR), N0 34, Tlđd. 
 [51]Memorandum of Conversation (USSR), N0 34, Tlđd.
 [52] Sáng ngày 27-10-1969, một phi đội 18 chiếc B-52 – những phi cơ ném bom chiến lược loại 8 động cơ tua-bin và sải cách dài 185 feet, mỗi phi cơ mang một lượng vũ khí hạt nhân lớn gấp hàng trăm lần những gì đã xóa sạch hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Các phi cơ được chỉ dẫn nhắm hướng Moscow, song mục tiêu thực sự là làm thay đổi chiến tranh tại Việt Nam, đe dọa Liên Xô về một cuộc tấn công hạt nhân, làm cho các nhà lãnh đạo Liên Xô nghĩ rằng R. Nixon đang điên cuồng tới mức sẽ thực hiện lời đe doạ, hy vọng Liên Xô sẽ lo sợ về những khả năng mất kiểm soát đối với Hà Nội bằng sức mạnh, để rồi yêu cầu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoặc bắt đầu có những nhượng bộ tại bàn thương lượng, hoặc sẽ gặp nguy cơ mất đi sự viện trợ quân sự của Liên Xô. Ngày 30-10-1969, Nixon ra lệnh chấm dứt chiến dịch.
 [53] “Học thuyết người điên” được đặt trên nền tảng của lý thuyết trò chơi, một phép toán trong môn toán học sử dụng những phép tính đơn giản cộng với lối suy luận chặt chẽ giúp cho việc hiểu được bằng cách nào mà người ta có được những lựa chọn – tựa như lao bừa tới khi gặp đèn đỏ hay đáp trả hành động khiêu khích. Cần thuyết phục các đối thủ của mình rằng ngay cả một chọn lựa cực đoan nhất cũng sẽ trở thành hiện thực một khi nó được đặt lên bàn. Và phương cách để thực hiện điều đó là làm sao cho người ta nghĩ rằng bạn là một kẻ điên rồ.
 [55] Memorandium of Conversatian (USSR), N0 34, Tlđd.
 [56]Memorandium of Conversatian (USSR), N0 34, Tlđd. 
[57]Memorandium of Conversatian (USSR), N0 34, Tlđd. 
 [58]Memorandium of Conversatian (USSR), N0 34, Tlđd. 
[59]Note From the Soviet Leadership toPresident Nixon,National  Archives,  Nixon  Presidential  Materials,  NSC Files,  President’s Trip  Files,  Kissinger/Dobrynin,1969,  Pt.1.
 [60] Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (7-1954 đến tháng 4-1975), Tlđd, tr. 40.
 [61] Lorenz M, Beijing, Moscow, and the Paris Negotiations, 1971-1973, p.62.
 [62] Tài liệu lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Cục Tác chiến, hồ sơ 5247.
 [63] И. В. Гайдук,  Советский Союз и война во Вьетнаме, Sđd, c. 170.




                                     

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!