Thứ Ba, 17 tháng 2, 2015

YẾU TỐ NGOẠI LAI TRONG CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT – TRUNG 1979

Nguyễn Thị Mai Hoa
Chiến tranh Việt –Trung (1979) là một cuộc chiến tranh hạn chế về không gian và thời gian giữa hai nước XHCN mà ẩn đằng sau nó là hai trục XHCN (Bắc Kinh – Phnompenh; Hà Nội – Moscow). Sở dĩ liên quan đến cuộc chiến có “hai trục XHCN” là bởi hai nước trực tiếp tham chiến đều phải dàn lực ra hai hướng (dù mức độ có khác nhau), tính đến mối đe dọa từ hai phía đều là những lực lượng trong cùng phe XHCN: Trung Quốc tấn công Việt Nam nhưng luôn nghe ngóng phản ứng của Liên Xô; Việt Nam chống trả Trung Quốc song vẫn phải tiếp tục đối phó với Khơme đỏ ở phía Tây Nam. Nói cách khác, liên quan đến cuộc chiến tranh Trung –Việt (1979) xuất hiện “một tam giác cấp vùng bao gồm Campuchia, Việt Nam và Trung Quốc và một tam giác liên lục địa bao gồm Việt Nam, Trung Quốc và Liên bang Xô viết”[1]. Rút từ hai loại hình tam giác đó và xung quanh chúng tồn tại, xuất hiện, dao động hàng loạt các yếu tố ngoại lai khác nhau với sự ảnh hưởng, tác động trên nhiều tầm mức và tầng nấc đa dạng, có ý nghĩa trực tiếp và gián tiếp.

1- Yếu tố Liên Xô
Là hai nước XHCN cùng chung ý thức hệ và tuyên bố ủng hộ cũng như tuân thủ nguyên tắc quan hệ kiểu mới trên nền tảng đoàn kết quốc tế, song quan hệ giữa Trung Quốc - Liên Xô sớm xuất hiện những rạn nứt, những bất đồng về quan điểm, đường lối, về lợi ích quốc gia. Đến thập niên 50-60 (XX), quan hệ Xô - Trung xấu đi một cách nghiêm trọng, giữa hai nước diễn ra hàng loạt sự kiện bất ổn khiến nhiều người đã tiên đoán về một cuộc chiến tranh không tránh khỏi. Quan hệ Xô - Trung mang tính chất thù địch rõ rệt và sau một loạt bất đồng về tư tưởng, xung đột về lợi ích quốc gia, quan hệ Trung - Xô rơi chạm đáy. Ở vào bối cảnh quan hệ với Liên Xô rơi vào “điểm chết”, coi Liên Xô là “kẻ thù số một” còn nguy hiểm hơn cả Mỹ, Trung Quốc không ngừng tập hợp lực lượng, tuyên truyền, vận động chống Liên Xô, vận động Việt Nam ngả theo Trung Quốc, phục vụ mục tiêu mở rộng vùng ảnh hưởng.
Trong cuộc chạy đua gia tăng vị thế ở khu vực châu Á và Đông Nam Á, Liên Xô –Trung Quốc cạnh tranh quyết liệt. Mối quan tâm của Trung Quốc tập trung vào hai điểm lớn: 1-Kiềm chế Việt Nam, giữ Việt Nam trong quỹ đạo của mình; 2- Ngăn chặn Liên Xô, phá thế gọng kìm bao vây Trung Quốc.
Về phía Liên Xô, quan tâm của Liên Xô đối với Đông Nam Á gia tăng từ năm 1965 và trở nên mạnh mẽ hơn sau khi Mỹ rút khỏi Việt Nam (1973). Chủ trương mở rộng sự hiện diện trên thế giới, Liên Xô đã tiếp cận được hàng loạt các căn cứ quan trọng về địa chính trị - quân sự tại các khu vực trọng yếu (cảng Berbera, Somali, 1975, cảng Massaua, Etiopia, 1977 và cảng Aden, Nam Yemen…). Các vị trí chiến lược này cho phép Liên Xô kiểm soát những tuyến đường hàng hải huyết mạch, tạo điều kiện cân bằng sức mạnh hải quân với Mỹ trên phạm vi toàn cầu. Việc Liên Xô đặt chân vào cảng Cam ranh thông qua Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt – Xô (11-1978), một mặt, củng cố, mở rộng phạm vi hoạt động của Liên Xô; mặt khác, khiến quan hệ Việt – Trung trượt dài thêm một bước. Trung Quốc phản ứng quyết liệt trước nguy cơ bị bao vây ở cả hai phía, đẩy mạnh các động thái chính trị - ngoại giao, tranh thủ các nước ASEAN, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, và tranh thủ Nhật Bản, chuẩn bị từng bước “dạy cho Việt Nam một bài học”. Đặng Tiểu Bình lý giải một trong ba lý do lớn để “trận này nhất định phải đánh” như sau: “Hành động này không đơn thuần là chỉ để bảo vệ biên giới, nó liên quan đến tình hình Đông Dương, cục diện Đông Nam Á, nói rộng hơn là liên quan đến cục diện thế giới” và “nếu chúng ta không đánh trả thì Việt Nam sẽ ngày càng trở nên kiêu ngạo, thúc đẩy phương Bắc lấn tới” trong khi “Liên Xô đã có mặt ở Afghanistan, Iran và tiếp đến là ở Việt Nam, gia tăng mối đe dọa đối với chúng ta từ phía Đông, do vậy, chúng ta cần phải đánh Việt Nam”[2]. Trung Quốc phân tích: “Đông Dương là một trạm trung chuyển nối giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, nếu Liên Xô có chỗ đứng chân ở Đông Dương, thì phía Tây sẽ có thể ra vào eo biển Malacca, qua Ấn Độ Dương đến thẳng Biển Đỏ; ở phía Đông có thể tung hoành trên Thái Bình Dương, ở phía Nam có thể đi đến Đại Tây Dương. Như thế, Liên Xô không những sẽ kiểm soát được tuyến đường hàng hải chuyên chở dầu lửa quan trọng Tây Âu, Mỹ, Nhật, đồng thời còn hình thành một vòng bao vây hình cung chiến lược”[3]. Như vậy, ám ảnh bởi sự cạnh tranh và những nguy cơ từ sự trỗi dậy của Liên Xô, Trung Quốc đã lồng vào quyết định đánh Việt Nam mục tiêu kiềm chế và dằn mặt Liên Xô.
 Quyết định đánh Việt Nam, Trung Quốc tiến hành một cuộc chiến với quy mô hạn chế do không thể không tính đến phản ứng của Liên Xô. Dù có phần lo ngại về khả năng Liên Xô có thể can thiệp để bảo vệ Việt Nam, song Trung Quốc đã dự đoán phản ứng của Liên Xô đối với cuộc tấn công này sẽ không mạnh mẽ, nếu có chăng chỉ là những cuộc quấy rối nhỏ mà Trung Quốc dư sức khống chế. Bắc Kinh nhận định: “Liên Xô nhiều nhất chỉ có thể phát động cuộc tấn công với mười sư đoàn và Trung Quốc không cần thiết phải điều động lực lượng quân đội từ các khu vực khác đến cũng đã có thể ngăn chặn”[4]. Đặng Tiểu Bình xác định Liên Xô “sẽ không tổ chức cuộc tác chiến với quy mô lớn, nhưng nếu họ có hành động thực sự thì chúng tôi cũng sớm có chuẩn bị thỏa đáng”[5]. Sở dĩ Trung Quốc tự tin trong các tính toán và hành động là bởi: Một là, Trung Quốc đã “rào dậu” kỹ càng về ngoại giao với hai đối tác quan trọng là Mỹ, Nhật trên cơ sở liên minh “chống chủ nghĩa bá quyền”; hai là, chuẩn bị dư luận thế giới về một cuộc “phản kích tự vệ” đuổi quân Việt Nam ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc; ba là, tiếp tục những cuộc hội đàm thường lệ với Liên Xô về vấn đề biên giới, tỏ rõ cho Liên Xô biết cuộc tấn công Việt Nam là một vấn đề riêng biệt, không ảnh hưởng đến việc cải thiện quan hệ giữa hai nước; bốn là, nắm bắt nhu cầu của Liên Xô trong “đàm phán hạn chế vũ khí hạt nhân lần thứ hai” với Mỹ - nhu cầu ấy không cho phép Liên Xô mạo hiểm phá vỡ mối quan hệ Mỹ - Xô. Tóm lại, Trung Quốc tin rằng “những hoạt động ngoại giao dồn dập, có kết quả đã tăng thêm đáng kể uy tín của Trung Quốc đối với các nước và đã làm cho Trung Quốc có thể giành được cảm tình, sự ủng hộ thêm của nhiều nước”[6], Liên Xô tất yếu không thể không cân nhắc tình hình này.
Dù đã tính toán chặt chẽ như vậy, song trước khi bắt đầu cuộc chiến tranh “trừng phạt Việt Nam”, Trung Quốc đã dời hơn 30 vạn dân thường ra khỏi khu vực biên giới Trung – Xô và tất cả mặt trận phía biên giới với Liên Xô đều nằm trong trạng thái báo động cấp cao nhất[7].
2- Yếu tố Campuchia
Bất chấp liên minh đoàn kết chiến đấu khá chặt chẽ trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, sau khi giải phóng Campuchia, vừa vào Phnôm Pênh, tập đoàn Pôn Pốt đã đưa ra một Chỉ thị tám điểm, trong đó có một nội dung về trục xuất Việt kiều và tăng cường quân đội ở biên giới với Việt Nam. Chỉ trong vòng ba tháng, gần 200.000 Việt kiều ở Campuchia bị cưỡng bách hồi hương; đồng thời, tập đoàn Pôn Pốt - Iêngxari tiến hành các cuộc xâm lấn, đánh chiếm biên giới Việt Nam liên tục trong thời gian dài với cường độ gia tăng. Ngày 21-12-1978, Polpot sử dụng 10 sư đoàn, mở chiến dịch tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Nam Việt Nam. Ngày 23-12-1978, Quân đội nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc phản công chiến lược. Đáp ứng yêu cầu của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, ngày 26-12-1978, Quân đội nhân dân Việt Nam đưa quân vào Campuchia, xóa bỏ chế độ diệt chủng, giải phóng toàn bộ đất nước Campuchia. 
Nhận xét về sự kiện này, nhà nghiên cứu Ramesh Thakur viết: “Bắc Kinh đã nhìn biến cố đó không phải với tư cách giải phóng nhân dân Campuchia, mà nhìn nó như việc hoàn tất sự theo đuổi của Việt Nam từ năm 1930 về một Liên bang Đông Dương dưới sự thống trị của Hà Nội”[8]. Ngày 16-1-1979, trong một cuộc họp kín mang tính nội bộ, Cảnh Tiêu, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc giải thích việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia như sau: “Ngay từ trước ngày giải phóng miền Nam Việt Nam, Việt Nam đã có những ý đồ xấu xa. Việt Nam luôn muốn xâm chiếm Campuchia, kéo Campuchia vào cái gọi là "Liên minh Đông Dương", biến nó thành bàn đạp và căn cứ của đế quốc xã hội trong mưu đồ thực hiện kế hoạch chiến lược toàn cầu và bành trướng xuống Đông Nam Á”[9]. Cảnh Tiêu tuyên bố: “Việt Nam sẽ thấy rằng cái mà chúng giành được hiện nay không phải là một chiến thắng mà là bắt đầu của một thất bại”[10].
Coi Campuchia là một mắt xích quan trọng phục vụ việc tạo vùng ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á, đóng vai trò trung tâm “trong chiến lược của Trung Quốc, nhằm bao vây ảnh hưởng của Việt Nam"[11], Trung Quốc đã không thể bình an ngồi nhìn “đồng chí Pol Pot” cũng như chính phủ Campuchia dân chủ đi đến chỗ diệt vong và càng không thể cam lòng trước sự “cả gan” của Việt Nam dám đưa quân vào Campuchia, khiến 3 vạn cố vấn Trung Quốc phải lội rừng sang Thái Lan và khoản tiền viện trợ vừa chuyển cho Campuchia trị giá 226 triệu nhân dân tệ (tương đương 1,5 tỷ USD) bị “rơi” vào thinh không.
Nhằm cô lập Việt Nam, Bắc Kinh đã lập tức nhấn mạnh luận điểm “tham vọng của Hà Nội không chỉ sẽ đe dọa đến lợi ích của Trung Quốc ở bán đảo Đông Dương mà còn đe dọa đến cả địa vị của các quốc gia không cộng sản trong ASEAN”[12]. Bắc Kinh cường điệu sự nguy hiểm của Việt Nam đối với Thái Lan và Malaysia. Ngày 13-12-1978, Lý Tiên Niệm cảnh cáo Việt Nam rằng, “sự nhẫn nại của Trung Quốc là có giới hạn và Trung Quốc không phải là một quốc gia dễ chịu để bắt nạt”[13]. Ngày 30-12-1978, Nhân dân nhật báo nhắc nhở các quốc gia ASEAN cần đề cao cảnh giác với Cuba phương Đông và chủ nghĩa bá quyền Liên Xô, phân tích ý đồ Liên Xô lợi dụng Việt Nam làm tay chân thâu tóm Đông Dương, kiểm soát Đông Nam Á, châu Á – Thái Bình Dương, đẩy Mỹ và các lực lượng thân Mỹ ra khỏi khu vực này. Tờ báo khẳng định: “Chính vì có sự đồng lõa của Việt Nam nên Liên Xô mới có thể chen chân vào châu Á, lợi dụng người châu Á đánh người châu Á, thực hiện những bước đi xâm lược bành trướng của họ. Vai trò của Việt Nam trong chiến lược châu Á của Liên Xô còn to lớn hơn cả vai trò Cuba ở châu Phi”[14].
Ít ngày trước chuyến xuất ngoại của Đặng Tiểu Bình sang Mỹ, Nhân dân nhật báo có bài xã luận, trong đó viết: “Đế quốc xã hội Liên Xô mượn tay người để hoành hành thiên hạ thực là mộng tưởng của kẻ ngu si, họ không thể ngăn cản nổi trào lưu lịch sử chống bá quyền của nhân dân thế giới, lịch sử sẽ cho kẻ xâm lược sự trừng phạt thích đáng”[15]. Tiếp đó, Nhân dân nhật báo kêu gọi thế giới “hãy đoàn kết lại, cùng ra sức giữ gìn hòa bình và ổn định ở châu Á và thế giới!”[16]. Có vẻ như thông điệp cảnh báo đã được phát đi. Vấn đề còn lại chỉ còn là ngày giờ và thể thức hiện thực hóa thông điệp ấy mà thôi.
3- Một số yếu tố khác
Tháng 1-1979, sự kiện Việt Nam đưa quân vào Campuchia đã làm đảo lộn mọi suy nghĩ, tính toán của các nước trong và ngoài khu vực. Các nước ASEAN đứng trước những tình thế và sự cân nhắc đầy khó khăn nhất là khi Mỹ đã không còn ở Đông Nam Á tạo ra một khoảng trống quyền lực tại khu vực. Điều trớ trêu là câu chuyện “hiệu ứng Đôminô” một lần nữa lại trở lại nhưng bây giờ đã trên những tính toán và bình diện khác. Một số nước ASEAN có xu thế co cụm lại và có ý cảnh giác trước “nguy cơ Việt Nam” mặc dầu để trấn an, từ rất sớm (1-1976), Việt Nam đã luôn khẳng định mục tiêu phấn đấu cho một Đông Nam Á độc lập, hòa bình, trung lập”[17], thể hiện thiện trí hợp tác của Việt Nam với các nước trong khu vực nói chung và với các nước ASEAN nói riêng. Tháng 7-1976, với mong muốn thâm nhập sâu hơn vào khu vực, thay mặt nước CHXHCN Việt Nam, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh nêu Chính sách 4 điểm đối với các nước Đông Nam Á phù hợp với những nguyên tắc của Hiệp ước Bali[18]. Tháng 12-1976, tại Đại hội IV, Đảng, Nhà nước Việt Nam làm rõ thêm quan điểm trong quan hệ với các nước ASEAN: "Sẵn sang thiết lập và phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực này trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, cùng tồn tại trong hòa bình"[19]. Nhờ những nỗ lực nêu trên, quan hệ của Việt Nam với các nước thành viên ASEAN đang tiến tới những khởi đầu mới, tuy nhiên, "sự kiện Campuchia” đã làm đảo lộn tất cả. Các nước trong khu vực đều có chung quan điểm rằng việc Việt Nam đưa quân tình nguyện vào Campuchia là có sự hậu thuẫn của Liên Xô, là bước lấn tới của Việt Nam trong quá trình thực hiện ý đồ thành lập Liên bang Đông Dương, bành trướng thế lực ra toàn khu vực Đông Nam Á. Thực tế quân đội Việt Nam đối mặt với quân đội Thái Lan tại vùng biên giới Thái Lan – Campuchia vào năm 1979 càng củng cố thêm nhận thức đó của ASEAN. Bên cạnh đó, hoạt động tuyên truyền của Trung Quốc về “đại bá Liên Xô” và “tiểu bá Việt Nam” đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý những nước này. Việc ký Hiệp ước Hợp tác, hữu nghị Việt – Xô (12-1978) và sự kiện Liên Xô đưa quân vào Afghanistan (12-1979), Liên Xô tăng cường sự hiện diện ở châu Phi thông qua sự giúp đỡ quân sự của Cuba cho một số nước ở châu lục này… càng khiến cho các lập luận của Trung Quốc thêm phần thuyết phục. Nỗi lo sợ về “sự bành trướng” của Việt Nam trong khu vực lại trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều nước. Kết quả là các nước ASEAN yêu cầu Hội đồng Bảo an lên án Việt Nam xâm lược Campuchia, vận động Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, phong trào Không liên kết giữ ghế cho Khơme đỏ. Trong các nước ASEAN, Thái Lan là nước phản ứng mạnh mẽ nhất, bởi là láng giềng gần gũi của Campuchia, đang tiếp tay cho tàn quân Polpot, Thái Lan lo sợ Việt Nam “trả đũa”, đánh sang đất Thái Lan. Hơn thế, Trung Quốc đã kịp làm yên lòng Thái Lan bằng hứa hẹn ngăn chặn một cuộc tấn công Thái Lan từ phía Việt Nam bằng cuộc chiến chống Việt Nam. Lý Quang Diệu nhớ lại: “Năm 1980, tại Bắc Kinh, Triệu Tử Dương đã giải thích cho tôi rõ rằng cuộc phản công tự vệ chống lại Việt Nam năm 1979 của Trung Quốc đã buộc Việt Nam phải duy trì 60% quân đội của họ dọc biên giới với Trung Quốc. Theo Triệu Tử Dương, nếu số quân này được đưa vào chiến đấu ở Campuchia thì hội nghị quốc tế tới sẽ phải bàn giải pháp hòa bình cho vấn đề Thái Lan chứ không phải Campuchia”[20].
Để trấn an các nước ASEAN, Trung Quốc luôn khẳng định Liên Xô sẽ không can thiệp quân sự vào khu vực nếu Trung Quốc tấn công Việt Nam. Tháng 11-1978, trong cuộc gặp gỡ Lý Quang Diệu, Đặng Tiểu Bình đã giải thích quan điểm này như sau: “Trung Quốc không bị ảnh hưởng bởi việc ký kết Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị Xô-Việt. Trung Quốc không ngại nếu Việt Nam yêu cầu Liên Xô đe dọa Trung Quốc. Liên Xô không dám lôi cuốn Trung Quốc vào cuộc chơi lớn (…) Trung Quốc sẽ buộc họ trả giá đắt cho hành động này và Liên Xô sẽ hiểu rằng ủng hộ Việt Nam là một gánh nặng”[21]. Đảm bảo này của Trung Quốc có sức mạnh động viên quan trọng trong điều kiện “sự bành trướng” của Liên Xô và Việt Nam là nỗi lo lắng chung của các nước Đông Nam Á. Ngoài ra, làn sóng người tị nạn vượt biển tràn sang các nước ASEAN cũng trở thành một tác nhân cho sự mất lòng tin vào Việt Nam, khiến các nước này ngả dần sang Trung Quốc, bài Việt Nam ngày một kiên quyết hơn.
Song song với các hoạt động vận động ngoại giao nhằm hình thành nên một một tập hợp lực lượng mới chống Việt Nam và Liên Xô, Trung Quốc có sự xoay chuyển đáng kể trong chính sách đối ngoại với các nước trong khu vực. Trước tiên, Singapore được Trung Quốc công nhận như một quốc gia đầy đủ và bắt đầu từ đó quan hệ hai nước phát triển nhanh chóng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, nhất là trong “vấn đề Campuchia”. Trung Quốc chấm dứt sự giúp đỡ đối với các Đảng cộng sản thân Trung Quốc tại các nước Đông Nam Á, nhất là trong các hoạt động vũ trang nhằm lật đổ các chính phủ đang cầm quyền; thừa nhận các chính phủ tư sản mà bấy lâu nay Trung Quốc vẫn cho là tay sai của Mỹ. Một bước đi khá dứt khoát của Trung Quốc vào thời điểm này liên quan đến Hoa kiều – “đội quân thứ năm” của Trung Quốc ở Đông Nam Á và ở nước ngoài: Khuyến khích Hoa kiều nhập quốc tịch nước sở tại, thôi nhấn mạnh quan hệ huyết thống giữa cộng đồng người Hoa ở các nước này với Trung Quốc; người Hoa đang sinh sống ở nước ngoài không còn đương nhiên được coi là công dân Trung Quốc; dỡ bỏ các đài phát thanh dành riêng cho cộng đồng người Hoa…. (mặc dù một thời gian sau đó khi câu chuyện chiến tranh biên giới với Việt Nam tạm lặng xuống, Trung Quốc lại làm nóng lại nhiều chính sách đã từ bỏ). Những bước đi nêu trên góp phần dẹp bớt những nghi kỵ của các nước Đông Nam Á đối với Trung Quốc tồn tại lâu đời nay, chuyển nó thành tấm lá chắn bảo vệ họ khỏi hai thế lực “tiểu bá”, “đại bá” Việt Nam và Liên Xô. “Một mũi tên trúng hai đích” - Trung Quốc đã thành công khi từ bỏ chính sách can thiệp vào các nước Đông Nam Á; thúc đẩy quan hệ kinh tế, tranh thủ vốn từ các nước này phục vụ chiến lược “bốn hiện đại hóa”; đồng thời, tập hợp được lực lượng chống Việt Nam. Trung Quốc đã có thể yên tâm phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam mà không e ngại sự lên án hoặc chống đối từ những nước có tầm ảnh hưởng trong khu vực. Trên thực tế, khi chiến tranh biên giới Trung – Việt 1979 nổ ra, tờ Kinh tế Viễn Đông đã bình luận: “Đối với Đông Nam Á mà nói thì không chút nghi ngờ, ở một số quốc gia nào đó đã dấy lên một làn sóng ủng hộ Trung Quốc”[22]. Các nước ASEAN đưa ra một đề án tại Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc yêu cầu Việt Nam rút khỏi Cămpuchia và Trung Quốc phải rút khỏi Việt Nam – có nghĩa là trong con mắt họ, Việt Nam và Trung Quốc được tiếp cận theo một vị thế quân bằng trong quan hệ với nước thứ ba.
Đối với Mỹ và Nhật Bản, tháng 8-1978, Trung Quốc ký với Nhật Hiệp ước Hữu nghị và Hòa bình, thuyết phục Nhật Bản không viện trợ cho Việt Nam; thuyết phục lãnh đạo Mỹ từ bỏ ý định bình thường hóa quan hệ với Việt Nam (5-1978); tích cực đàm phán bình thường hóa quan hệ với Mỹ (12-1978); thăm Mỹ, vận động ủng hộ nếu Trung Quốc phát động chiến tranh đánh Việt Nam (1-1979). Việc bình thường hóa quan hệ Trung- Mỹ khiến Trung Quốc đặc biệt phấn chấn: “Việc thiết thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Mỹ là một thắng lợi của đường lối cách mạng vô sản. Nó chứng tỏ lần nữa rằng đế quốc Mỹ thực chất chất là một con hổ giấy chứ không phải là một tấm thép”[23].
Hưởng lợi từ việc Trung – Xô mâu thuẫn, đối địch, trong giới lãnh đạo nước Mỹ nhiều người tỏ ý đồng tình với kế hoạch của Trung Quốc. Brzezinski  - cố vấn an ninh Tổng thống Mỹ ủng hộ Trung Quốc “dạy cho Việt Nam một bài học” với cách thức đánh nhanh, không kéo dài[24]. Nhìn chung, các diễn tiến ngoại giao vào nửa cuối năm 1978 là khá có lợi cho Trung Quốc, “Bắc Kinh, Tokyo, Washington đã đạt được tới một nửa hiệp nghị khu vực Thái Bình Dương chống “bá quyền”[25]. Quả thật, Trung Quốc khá an tâm về thái độ những nước này trước những động thái có thể của Trung Quốc nhằm “đặt Việt Nam vào đúng vị trí”. Cảnh Tiêu lạc quan khẳng định: “Chúng ta đã tìm cách tranh thủ được Mỹ và đã ngăn chặn có kết quả sự mặc cả lén lút giữa Mỹ và Liên Xô, hai siêu cường đang cùng nhau chia sẻ thế giới. Hiện nay đã hình thành một mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa bá quyền của đế quốc xã hội bao gồm kẻ thù thứ yếu của chúng ta là Mỹ trong thế giới thứ nhất, phần lớn các nước trong thế giới thứ hai và thế giới thứ ba. Hiện nay Trung Quốc không bị cô lập, chỉ có Sa hoàng mới đang run sợ vì bị cô lập”[26]. Thực vậy, Khi Trung Quốc bắt đầu xâm lược Việt Nam, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Michael Blumenthal vẫn đi thăm Trung Quốc bình thường và tiến hành cải thiện mối quan hệ mậu dịch Mỹ - Trung. Ngày 12-2-1979, Quốc vụ khanh Mỹ Vance nhắc nhở Đại sứ Liên Xô Dobrynin rằng, Liên Xô không nên triển khai bố trí quân đội tại Việt Nam. Phát biểu tại Hội nghị tổng kết chiến tranh Trung – Việt (16-3-1979), Đặng Tiểu Bình tiết lộ một thông tin: Khi quân đội Trung Quốc tấn công Việt Nam cũng là lúc “Hoa Kỳ đã gửi Hạm đội 7 thực hiện tuần tra, giám sát nhằm đối trọng với Hải quân Liên Xô đang có mặt tại phía Nam biển Nam Trung Hoa”[27]. Sau hơn một tuần, Chính phủ Mỹ mới dần thể hiện sự phản đối hành động của Trung Quốc một cách nhẹ nhàng, phê chuẩn một chính sách mới, nhằm “làm cho ảnh hưởng của cuộc chiến tranh này giảm tới mức thấp nhất sự trầm trọng thêm trong quan hệ Mỹ - Xô và Mỹ - Trung; đảm bảo quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam, quân Việt Nam rút khỏi Cămpuchia và ngăn chặn Liên Xô mở rộng cuộc xung đột”[28]. Tokyo có thái độ phản đối cuộc chiến tranh, nhưng kiên trì ủng hộ lập trường của ASEAN, yêu cầu ngừng chiến tranh và đề nghị quân đội nước ngoài rút khỏi Đông Dương.


*                               *
*

Quan hệ giữa các quốc gia là mối quan hệ hết sức động, bị chi phối bởi những điều kiện khác nhau, xoay chuyển, vận động không ngừng dưới tác động của các yếu tố khách quan, chủ quan. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là một điển hình như vậy. Trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, từ “môi hở răng lạnh”, “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, Việt Nam và Trung Quốc đã trở thành những kẻ thù không đội trời chung. Cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 đã chính thức đặt dấu chấm hết cho lý thuyết “chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng”; đồng thời, khởi đầu một giai đoạn mới đầy phức tạp trong quan hệ giữa các nước ở khu vực.
Sau một khoảng lùi lịch sử, bình tĩnh nhìn nhận về cuộc chiến tranh Trung Quốc phát động chống Việt Nam, hàng loạt những vấn đề thuộc về hoặc liên quan vẫn đang đặt ra những câu hỏi nóng bỏng, đòi hỏi những nhìn nhận sòng phẳng, khách quan, công tâm.
Lịch sử đã qua sẽ không lặp lại, nhưng nó có thể trở về với hiện tại trong một hình hài gần gũi. Lịch sử không đứt đoạn, không có một nhát cắt rạch ròi giữa quá khứ -  hiện tại - tương lai. Trong cuộc đối thoại bất tận giữa ngày hôm qua và ngày hôm nay, hiểu thấu những thành công và sai lầm, con người, dân tộc dần lớn lên. Trong chuỗi logic ấy, điều quan trọng hơn cả đó là vấn đề lợi ích dân tộc. Lịch sử có “đúng”, có “sai” và ranh giới giữa “sai” - “đúng” nhiều khi hết sức mong manh. Thế nhưng, bước qua lằn răn mỏng mảnh ấy là số phận con người, số phận quốc gia, dân tộc.
Chiến tranh biên giới năm 1979 đã lùi xa, nhưng nợ máu xương vẫn còn đó. Lịch sử luôn phát xét công bằng. Nhìn lại cuộc chiến không phải nhằm khơi lên hận thù, không để đốt cháy hiện tại, mà để thấm thía hơn giá trị từng tấc đất tiền nhân để lại, có trách nhiệm hơn với ngày hôm nay và tương lai.




[1] Ramesk Thakur: Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War, The Australian Outlook, Volume 34, N0 1, 1980, p. 64-74
[2]邓小平当年在中越边境作战情况报告会上的讲话, Junshi.xilu.com.
[3] 人民网, 10 -1 – 1979.
[4] Major General Robert N. Ginsburgh, US. A. F (Ret.): China Touches the Tigers Bottomas,  Air force, June 1979, Vol. 62, N0. 6, pp. 44-45.
[5] David Bonavia: Chanqing the Course of History, For Eastern Economic Review, Marche, 1979, p. 10.
[6]Keng Piao's [Geng Biao's] Report on the Situation of the Indochinese Peninsula,” January 16, 1979, Issues and Studies 17, no. 1 (January 1981), p. 88.
[7] Harlan W. Jencks: China’s Punitive War on Vietnam Amilitary Assessment, Asian survey August 1979, Vol. XIX, N0. 8, p. 806.
[8] Ramesh Thakur: Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War, The Australian Outlook, Volume 34, N0 1, 1980, p. 69.
[9]Keng Piao's [Geng Biao's], Ibid, p. 82.
[10]Keng Piao's [Geng Biao's], Ibid, p. 81.
[11]  Cuộc xung đột Trung Quốc - Việt Nam (1980), Chuyên san, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, tr.9.
[12] Bành Mộ Nhân: Quyết sách của Trung quốc trong cuộc Chiến tranh trừng phạt Việt Nam, Lưu tại thư viện Quân đội, tr.83.
[13] Bành Mộ Nhân: Sđd, tr.100.

[14] 人民网, 30 -12 – 1978.

[15] 人民网, 10 -1 – 1979.

[16] 人民网, 16 -1 – 1979.

[17] Ban Chấp hành TW Đảng khóa V: Báo cáo, kiến nghị của Ban Đối ngoại Trung ương về tình hình chủ trương quan hệ giữa nước ta với một số nước, 1985, Tài liệu lưu tại kho Lưu trữ Trung ương Đảng, tr.7.
[18]Năm 1976, tại Bali (Indoensia) đã diễn ra Hội nghị cấp cao ASEAN lần đầu tiên. Hội nghị đã thông qua Hiệp ước thân thiện và hợp tác, còn được gọi là Hiệp ước Bali – cơ sở pháp lý cơ bản nhất cho sự tham gia của các quốc gia vào Hiệp hội và sự gắn kết, hợp tác trong Hiệp hội. Khi đó, ASEAN chưa bao hàm tất cả các quốc gia trong khu vực và chưa có mối quan hệ với các đối tác đối thoại như hiện nay.
[19] Đảng cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.78.
[20] Lee Kuan Yew: Mmemoirs of, from Thrid World to First, The Singapore Story: 1965-2000, Singapore Press holdings, 2000, p.377.
[21] Lee Kuan Yew: Ibid, p.377.
[22] Bành Mộ Nhân: Sđd, tr.127.
[23] Keng Piao's [Geng Biao's], Ibid, p. 91.
[24] Nguyễn Cơ Thạch: Chiến lược của ta đối với TrAgng Quốc, 12-1978, Lưu tại thư viện Quân đội.
[25] Bành Mộ Nhân: Sđd, tr.100.
[26] Keng Piao's [Geng Biao's], Ibid, p. 90.
[27]邓小平当年在中越边境作战情况报告会上的讲话, junshi.xilu.com.
[28] Bành Mộ Nhân: Sđd, tr.135.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!