Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

TRUNG QUỐC: CẢI CÁCH, PHÁT TRIỂN VÀ NGUY CƠ

Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
 Cách đây vài chục năm, hình ảnh của Trung Quốc trong con mắt thế giới là những toà nhà, quảng trường màu xám với những người dân tay cầm trước tác Mao Trạch Đông, xếp hàng dài mua lương thực, thực phẩm. Còn hiện tại, nói đến Trung Quốc là nói đến một đất nước đang phát triển năng động, có vị trí không thể phủ định trên trường quốc tế, một trong những quốc gia có khả năng làm cho thế giới trở nên đa cực hơn, song cũng đồng thời là một trong những quốc gia đang đặt thế giới trước nhiều nguy cơ tiềm ẩn.

 1- Cải cách, ổn định và nguyên tắc “một đất nước - hai chế độ”
Trung Quốc là nước tiến hành ci cách, mở cửa tương đối sớm và được đánh giá là một trong những nước có mức độ tăng trưởng nhanh, bền vững, liên tục với chế độ chính trị - xã hội ổn định suốt thời kỳ cải cách, chuyển đổi. Có được thành tựu đó, Trung Quốc đã phải trải qua một chặng đường tìm tòi, khảo nghiệm đầy chông gai.
Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công (1949), Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định mục tiêu nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội, “tước đoạt tư liệu sản xuất chiếm hữu tư nhân của giai cấp tư sản thành chiếm hữu chung của xã hội”[1]. Nhận thức đó dẫn đến việc hình thành mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp; xóa bỏ hoàn toàn sản xuất hàng hóa, phủ nhận sạch trơn cơ chế thị trường[2].
Năm 1978, Trung Quốc tiến hành “cuộc đại cách mạng lần hai”, đặt ra mục đích nhanh chóng phát triển đất nước, đạt tới nền kinh tế hiện đại, văn hoá phát triển, xây dựng CNXH với đặc điểm, màu sắc riêng của mình. Bằng những bước đi thận trọng, Trung Quốc đặt trọng tâm vào cải cách kinh tế, nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò khu vực “phi công hữu” - vấn đề cốt lõi của chế độ sở hữu trong mô hình kinh tế - chính trị đặc thù Trung Quốc, chuyển đổi từ mô hình “kế hoạch hóa tập trung” sang kết hợp kinh tế kế hoạch với điều tiết thị trường, lấy kế hoạch làm chủ thể; triệt để coi trọng tác dụng của điều tiết thị trường. Điểm đột phá trong quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế của Trung Quốc nằm ở việc phủ nhận lý luận truyền thống trước đây về kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là “mảnh đất” phục hồi chủ nghĩa tư bản, là “cái đuôi của chủ nghĩa tư bản”; đồng thời, chính thức công nhận: “Kinh tế cá thể của Trung Quốc là kinh tế gắn với chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, khác với kinh tế cá thể gắn với chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, nó có tác dụng không thể thay thế được đối với việc phát triển sản xuất, tiện lợi cho đời sống của nhân dân, mở rộng công ăn việc làm cho người lao động, nó là nguồn bổ sung cần thiết cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và nằm trong kinh tế xã hội chủ nghĩa”[3]. Tiếp đó, Hiến pháp năm 1982 của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nâng khu vực “phi công hữu” lên địa vị hợp pháp: “Nhà nước căn cứ theo Pháp luật quy định mà bảo vệ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân”[4]. Nhờ những bước đi tích cực nêu trên, Trung Quốc bắt đầu chuyển mình. Số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm từ 650.000 doanh nghiệp năm 1998 xuống còn 430.000 doanh nghiệp năm 2002, nhưng lợi nhuận của các doanh nghiệp này lại tăng 3,5 lần. Đến cuối năm 2006, Trung Quốc cơ bản đã hoàn thành việc cải cách, phân chia cổ phần của doanh nghiệp Nhà nước. Trong tổng số 801 doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối lên sàn giao dịch chứng khóa, có 785 doanh nghiệp (chiếm 98%) hoàn thành hoặc đang bắt đầu làm thủ tục lên sàn giao dịch chứng khoán trong nước[5]. Giai đoạn 2002-2007, số doanh nghiệp Nhà nước của Trung Quốc đứng trong danh sách 500 doanh nghiệp mạnh trên thế giới tăng từ 11 doanh nghiệp lên 22 doanh nghiệp[6]. Từ năm 1979 đến năm 1997, Trung Quốc là một trong những nước có mức tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới: 9,8%/ năm; năm 2000, xuất khẩu hơn 350 tỉ USD (năm 1978:20,6 tỉ ). Năm 1988, Trung Quốc đã có hơn 10 triệu doanh nghiệp cá thể và 200.000 doanh nghiệp tư doanh với tổng số công nhân làm thuê là 24,8 triệu người. Bên cạnh khu vực phi công hữu thuần túy Trung Quốc, sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của bộ phận tư bản có vốn Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan và nước ngoài tạo ra sự trỗi dậy, sức bật và sự sôi động của nền kinh tế.
Những năm tháng Giang Trạch Dân lãnh đạo Trung Quốc[7] được coi là thời kỳ ổn định chưa từng có của Trung Quốc trong vòng 150 năm trở lại đây. Thu nhập bình quân đầu người đạt 800 USD/năm. Vào năm 1979, khu vực kinh tế tư nhân gần như bằng không, còn ở thời điểm năm 2001, khu vực này chiếm 40% nền sản xuất của đất nước. Năm 2001, đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc vào khoảng 500 tỉ USD (chiếm vị trí số 2 trên thế giới, sau Mỹ). Đây được coi là thay đổi quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế của Trung Quốc thời kỳ cải cách, mở cửa, nhất là khi Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ XV (1997) đề ra nhiệm vụ điều chỉnh và hoàn thiện cơ cấu chế độ sở hữu, khẳng định vai trò tích cực của kinh tế “phi công hữu”, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội, tăng thêm việc làm, thúc đẩy kinh tế quốc dân phát triển; trên cơ sở đó, coi kinh tế phi công hữu là một “bộ phận quan trọng” của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc. Sau 20 năm xây dựng và đổi mới chính sách, cuối cùng, khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc đã được đối xử bình đẳng về tư cách pháp nhân, có một địa vị mới, chuyển từ vị trí thứ yếu - “bộ phận bổ sung có ích” sang “bộ phận quan trọng”, được xếp vị trí ngang bằng với khu vực công hữu trong quá trình phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Khuôn khổ pháp lý của Chính phủ "ngày càng trở nên thân thiện hơn" với khu vực kinh tế tư nhân. Với dấu mốc đó, giai đoạn xây dựng chính sách hầu như được hoàn tất, khu vực tư nhân kết thúc thời kỳ khởi động, nền kinh tế Trung Quốc đã dần chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hoá cứng nhắc sang thể chế kinh tế thị trường có điều tiết.
Đà và mức độ phát triển kinh tế ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tiêu thụ của người Trung Quốc - khả năng đó đang tăng lên rõ rệt. Cơ quan thống kê Trung Quốc đưa ra công bố: Tiêu dùng người dân tăng 18%/năm (trong khi con số này tại Mỹ chỉ ở mức 2,2%). Nếu như vào những năm 80 (XX), tivi, tủ lạnh là món hàng đầu tiên những người Trung Quốc có thu nhập khá nghĩ đến, thì những năm đầu thập kỷ XXI, vi tính, điện thoại di động, ôtô, căn hộ... không còn là mơ ước xa vời của một bộ phận dân cư không nhỏ. Năm 2013, Tập đoàn tư vấn đầu tư hàng đầu thế giới CLSA Asia-Pacific công bố Báo cáo khảo sát mức tiêu thụ các mặt hàng xa xỉ phẩm, theo đó, Trung Quốc tiêu thụ 15% số hàng hóa xa xỉ phẩm của thế giới[8]. Tập đoàn này dự đoán năm tiếp theo, tỉ lệ này sẽ tăng vọt lên mức 44%, đưa quốc gia đông dân nhất thế giới lên vị trí số 1 với các loại xe hơi hạng sang[9]. Theo số liệu khảo sát của Ngân hàng đầu tư Hoa Kỳ Goldman Sachs, năm 2012, người tiêu dùng Trung Quốc đã chi khoảng 46 tỷ USD vào hàng hóa cao cấp với 27,1 tỷ USD chi tiêu ở nước ngoài và 18,9 tỷ USD tại Trung Quốc[10]. Ngân hàng này cũng dự đoán tổng mức tiêu thụ hàng cao cấp ở Trung Quốc sẽ đạt 30 tỷ USD vào năm 2015[11].
Như vậy, bằng sự lãnh đạo mềm dẻo, khôn khéo, Giang Trạch Dân đã đưa đất nước Trung Quốc qua cơn khủng hoảng và đạt được sự thống nhất cao độ trong Đảng kể từ khi Đặng Tiểu Bình lùi vào hậu trường. Trung Quốc đã bình thường hóa quan hệ với nhiều nước trên thế giới (với Liên bang Nga, Việt Nam…), khẳng định vị trí vững vàng trước nhiều quốc gia, trong đó có Mỹ.
Cống hiến to lớn của Giang Trạch Dân còn ở chỗ đã cùng với Ban lãnh đạo Trung Quốc kết thúc quá trình sáp nhập Hồng Kông, Ma Cao được bắt đầu từ thời Đặng Tiểu Bình.
Hồng Kông được trao trả Trung Quốc vào ngày 1-7-1997. Với số dân hơn 7 triệu người, Hồng Kông là khu vực lãnh thổ có sự tăng trưởng kinh tế cao ở Châu Á.
Đặng Tiểu Bình - người thiết kế việc sáp nhập Hồng Kông đã đặt câu hỏi, đồng thời đó cũng là tuyên bố chính thống về mô hình tương lai của Hồng Kông sau khi về với Trung Quốc: “Có cần phải giết con gà đang đẻ trứng vàng hay không?”. Đặng Tiểu Bình nêu nguyên tắc: “Một đất nước, hai chế độ”; “người Hồng Kông lãnh đạo Hồng Kông”; theo đó, Hồng Kông có quyền tự trị rất cao, có hiến pháp riêng, có toàn quyền tham gia vào các quan hệ quốc tế và các tổ chức quốc tế như một thành viên độc lập. Cũng với quan điểm tương tự như trên, tiếp sau Hồng Kông, ngày 20-12-1999, lần thứ hai Trung Quốc thu hồi lãnh thổ của mình, đón Ma Cao trở về - lịch sử Ma Cao lật sang một trang mới: Chuyển từ chế độ thuộc địa sang chế độ tự trị dân chủ. Từ thời điểm đó, hai nền kinh tế tự do Hồng Kông, Ma Cao tiếp tục vai trò cửa ngõ, cầu nối cho kinh tế Đại lục tiến mạnh ra bên ngoài. Thực tiễn đã minh chứng về sự đúng đắn của quan điểm “một đất nước, hai chế độ” bằng những con số sống động của Hồng Kông sau 10 năm trở về Trung Quốc: Từ năm 1997 đến năm 2006, kinh tế tăng trưởng bình quân 2%/năm (năm 1998, tăng trưởng của Hồng Kông là -5%); GDP bình quân đầu người ngang mức của Đức (27.565 USD/2006)[12]. Riêng năm  2007, tổng GDP của Hồng Kông là 8,7 tỷ USD, đạt mức tăng 6,8% (trong cơ cấu GDP, công nghiệp chiếm 11,9%, dịch vụ chiếm 88%, nông nghiệp chỉ chiếm  0,1%)[13]. Đối với Ma Cao, doanh thu từ các sòng bạc đã vượt qua cả “ông trùm” Las Vegas đến 6 lần, tốc độ tăng trưởng kinh tế gấp đôi Trung Quốc, GDP trên đầu người khoảng 40.000 USD/năm, gần bằng Đức và cao hơn Anh[14]. Như vậy, cùng với việc sáp nhập Hồng Kông, Ma Cao, ở Trung Quốc tồn tại hai hệ thống chính trị với hai hình thái kinh tế khác nhau. Sự lớn mạnh không ngừng của tầng lớp trung lưu, những nhà doanh nghiệp, các ông chủ cộng với nền kinh tế thị trường phát triển đòi hỏi các nhà lãnh đạo Trung Quốc cách nhìn nhận chính trị linh hoạt. Đường lối chính trị mà Ban lãnh đạo Trung Quốc thực hiện là tiến hành những bước đi, những cải cách từ từ, luôn tính toán đến đặc điểm riêng của Trung Quốc. Trong quá trình thực hiện dân chủ hoá, đại diện của những giai cấp mới dần có chỗ đứng và có tiếng nói nhất định.
2- Bài toán dân số, việc làm và vấn đề chảy máu chất xám
Dân số Trung Quốc chiếm 21,2% dân số trái đất[15] - hiện dân số đang là một vấn đề phức tạp của Trung Quốc khi mức tăng dân số tỉ lệ nghịch với nhịp độ phát triển của đất nước. Nhờ chính sách kế hoạch hoá dân số, trong khoảng 20 năm trở lại đây (1993-2013), dân số Trung Quốc chỉ tăng thêm có 250 triệu người, song dù vậy, với mức độ tăng dân số như trên, trong 10 năm tới (2014-2024), mỗi năm, dân số Trung Quốc sẽ tăng thêm 10 triệu người. Ở thời điểm hiện tại, dân số khổng lồ của Trung Quốc đã vượt quá khả năng đáp ứng của điều kiện tự nhiên. Theo tính toán, với điều kiện đất đai, môi trường như Trung Quốc hiện có, dân số chỉ cho phép tối đa ở ngưỡng từ 700 đến 800 triệu người, nhưng trên thực tế, dân số Trung Quốc đã lên đến trên 1.3 tỉ và 94% dân cư đang sinh sống trên 46% lãnh thổ[16]. Diện tích đất khô hạn và bán khô hạn của Trung Quốc chiếm 31% và 22% (53%) tổng diện tích đất đai[17]. Trong một tương lai không xa, Trung Quốc sẽ thiếu hụt trầm trọng diện tích đất sinh kế.
Thu hẹp ruộng đất canh tác, thiếu nước, phá rừng, rác thải sinh hoạt... hậu quả của việc tăng dân số đang gây thảm họa cho môi trường, hủy hoại cân bằng sinh thái. Một trong những dạng thức phá hủy môi trường thường gặp ở Trung Quốc là xói mòn, xâm thực và sa mạc hóa đất đai. Đến những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, diện tích đất bị xói mòn ở Trung Quốc vào khoảng 1,6 triệu km2 (chiếm 1/6 diện tích cả nước); hàng năm, có khoảng 2.100 km2 đất đai bị biến thành sa mạc[18]. Cũng do môi trường bị phá hủy mà trung bình mỗi năm Trung Quốc thiệt hại khoảng 40-60 tỷ Nhân dân tệ vì thiên tai[19].
Bên cạnh đó, vấn đề dân số của Trung Quốc có khía cạnh bất thường - chênh lệch giới: Tương quan giữa con trai và con gái sơ sinh có tỉ lệ 102-107:100, ở các tỉnh lẻ, tỉ lệ này là 130:100, còn ở nông thôn lên tới 150:100[20]. Tương lai gần, sẽ có 20 triệu nam thanh niên Trung Quốc không thể lấy được vợ - một hiện tượng chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại. Tuổi thọ của người Trung Quốc cao hơn hẳn so với các nước công nghiệp phát triển, nơi mà hệ thống chăm sóc sức khoẻ tốt hơn gấp nhiều lần. Năm 1996, Trung Quốc có khoảng 130 triệu người từ 60 tuổi trở lên, chiếm khoảng 10% tổng dân số[21]. Đến năm 2025, dự báo người cao tuổi sẽ lên đến hơn 300 triệu (hơn 20% tổng dân số); năm 2035, tỷ lệ đó sẽ là 27%, có nghĩa cứ 4 người lại có một người cao tuổi[22]. Chi trả lương hưu cho người cao tuổi ở Trung Quốc gấp từ 5-7 lần đầu tư cho trẻ em ở các thành phố[23]. Như vậy, “chưa kịp giàu lên, Trung Quốc đã nhanh chóng già đi - đó là vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp nhất mà Bắc Kinh phải đối diện”[24]. Dân số già đi hết sức bất lợi cho tương quan giữa chi phí và tích lũy vốn, là gánh nặng đè lên vai người lao động nuôi gia đình, ảnh hưởng tiêu cực đến phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân. Xuất hiện mâu thuẫn giữa việc dân số già đi và mô hình gia đình một con - vấn đề đang làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc.
Cùng với sự gia tăng dân số, bài toán thất nghiệp vẫn chưa có lời giải thỏa đáng. Hiện nay, Trung Quốc đang phấn đấu để giữ tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,2%/năm, nhằm tránh sự tăng vọt tỷ lệ thất nghiệp, vì giữ tốc độ này, Trung Quốc sẽ tạo được 10 triệu việc làm mỗi năm, cho phép kìm chân tỷ lệ thất nghiệp vào khoảng 4%[25], song điều đó cũng không giúp Trung Quốc thoát khỏi cảnh dư thừa từ 150-180 triệu lao động/năm. Chính phủ phải chi một khoản tiền không nhỏ cho những chính sách xã hội liên quan đến thất nghiệp -  4% của mức tăng trưởng kinh tế cho quĩ phúc lợi xã hội - có nghĩa là để tiến hành hiện đại hóa đất nước và giải quyết những vấn đề xã hội, Trung Quốc phải giữ vững mức tăng trưởng liên tục không dưới 7%/năm. Đây là một nhiệm vụ quả là hết sức nặng nề, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới đang gặp khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp tới kinh tế Trung Quốc.
Hiện tượng người dân Trung Quốc di cư ra nước ngoài bắt đầu xảy ra từ sau ngày thi hành chính sách cải cách mở cửa với qua ba giai đoạn: 1- Thập niên 80 (XX), dấy lên  phong trào xuất khẩu lao động rồi nhập cư tại nước sở tại; 2- Thập niên 90 (XX) – luồng di dân mạnh mẽ với phong trào “du Tây” và tầng lớp trí thức trẻ không trở về; 3- Thập niên đầu thế kỷ XXI – sự ra đi của tầng lớp tinh hoa Trung Quốc. Có đến một nửa các nhà triệu phú đô la Trung Quốc muốn di cư ra nước ngoài[26]. Một điều tra do Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc thực hiện trong tháng 2-2007 cho thấy: Hơn 300.000 người Trung Quốc nhập cư có trình độ cao đang làm việc trong những ngành có giá trị gia tăng lớn tại các quốc gia khác. Từ năm 1978 đến năm 2009, trong số khoảng 1,62 triệu người Trung Quốc ra nước ngoài học tập, chỉ có gần 460.000 người trở về[27]. Tính đến năm 2000, tỷ lệ du học sinh Trung Quốc về nước là 1/3, nhưng những năm 2010-2013, tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 1/4[28].
 Phân tích ba làn sóng di cư Trung Quốc, nổi lên một hiện thực: Càng về sau, di dân của Trung Quốc càng mạnh mẽ hơn, ảnh hưởng “đau đớn” và nặng nề hơn đối với kinh tế - xã hội Trung Quốc thể hiện ở mức độ tăng mạnh trào lưu ra đi của tầng lớp tinh hoa - tầng lớp vô cùng cần thiết cho sự phát triển bứt phá của xã hội (ra đi cùng với tầng lớp này là chất xám, công nghệ và đặc biệt là niềm tin vào tương lai đất nước). Tình trạng di dân ngoại khối (di dân quốc tế) là một trong các tiêu chí đánh giá quốc gia thất bại (Failed States Index), nên tuy nhiều năm nay, dù Trung Quốc là một trong những đất nước liên tục dẫn đầu thế giới về tốc độ trưởng kinh tế và sức mạnh tổng hợp quốc gia, “nhưng hai năm 2009, 2010 lại rơi vào hàng ngũ các nước thất bại nhất trên thế giới, tức thuộc vào khối 60 quốc gia có chỉ số thất bại cao nhất”[29] (Trung Quốc xếp thứ 57 trong số 177 quốc gia được khảo sát). Trước tình trạng đó, Nhà nước Trung Quốc nỗ lực ngăn chặn nạn “chảy máu” chất xám bằng nhiều biện pháp khác nhau, xây dựng Đề cương quy hoạch phát triển nhân tài trung dài hạn[30]; tuy nhiên, những nỗ lực của Trung Quốc vẫn còn quá khiêm tốn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế và khoa học.
3. Cuộc chiến chống tham nhũng và vấn đề khủng hoảng tín nhiệm xã hội
Mặc dù có những phát triển ngoạn mục, song các nhà phân tích chính sách, các chuyên gia kinh tế nhận định rằng, hệ thống kinh tế - chính trị, xã hội của Trung Quốc chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn sâu xa.
Có thể nói rằng, tham nhũng là bạn đồng hành với nền kinh tế thị trường. Với Trung Quốc, Quân đội là nơi có kỉ luật nghiêm minh nhất, nhưng những vụ việc tham nhũng, buôn lậu trong hàng ngũ các sĩ quan cao cấp vẫn liên tục được phát hiện. Tham nhũng đặc biệt phổ biến ở các tỉnh biên giới, các đặc khu - nơi có nhiều quyền lợi béo bở; tham nhũng lan tràn ở các địa phương, nhất là những địa phương xa chính quyền Trung ương (Giang Tây, Hồ Bắc, Quý Châu…); tham nhũng diễn ra với mức độ cao trong lĩnh vực xây dựng, đất đai và khai thác khoáng sản. Theo điều tra dư luận xã hội mới nhất (2013), hơn 70% dân số Trung Quốc cho rằng, cuộc đấu tranh chống tham nhũng phải trở thành một trong những hoạt động chủ đạo của chính phủ.
 Chính phủ Trung Quốc đã nhận thấy nguy cơ đe dọa đối với sự phát triển của đất nước nếu không loại trừ tận gốc nạn tham nhũng. Hồ Cẩm Đào từng phát biểu: “Tồn tại hay diệt vong của Đảng và của chế độ phụ thuộc vào mức độ mạnh yếu của ý chí chính trị đối với việc trừng trị và tiêu diệt tham nhũng”[31]. Trên thực tế, nhiều năm nay, đấu tranh chống tham nhũng được thực hiện ở Trung Quốc một cách khá cương quyết. Những năm 2000-2005, Uỷ ban chống tham nhũng đã lôi ra ánh sáng hơn 136.000 quan chức các chức vụ khác nhau (trong đó có 1.5000 cán bộ, công chức ngành pháp luật) mắc tội tham nhũng, tiếp tay, hoặc có liên quan đến tham nhũng. Những năm 2007-2012, khoảng 150.000 người đã bị bắt giữ về tội tham nhũng, không ít hơn 66.000 cán bộ đã bị bỏ tù vì tội nhận hối lộ và khoảng 23.000 công dân - vì tội đưa hối lộ các quan chức; có 4.800 vụ án hình sự liên quan đến hối lộ đang bị điều tra với số tiền hối lộ lên đến hơn 1 triệu Nhân dân tệ (164.000.000 USD), thậm chí có những vụ số tiền hối lộ đã vượt quá 10 triệu Nhân dân tệ[32]. Từ năm 2000 đến năm 2012, Trung Quốc đã xử tử vì tội tham nhũng khoảng 10.000 cán bộ, bỏ tù 120.000 người khác từ 10-20 năm[33]. Riêng năm 2010, đã xử tử hình hoặc tù chung thân 11 quan chức cấp cao (với số tiền trung bình họ đã nhận hối lộ khoảng 100.000.000 Nhân dân tệ), cao hơn 20% so với năm 2009[34]. Năm 2012, Trung Quốc xuất bản Sách trắng “Tăng cường đấu tranh chống tham nhũng và xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy chính quyền trong sạch”, nhấn mạnh rằng kể từ đầu thế kỷ XXI, chính phủ Trung Quốc đã thực hiện cuộc chiến chống tham nhũng và xây dựng bộ máy Nhà nước liêm khiết, coi đó là một nhiệm vụ trọng yếu trong toàn bộ hoạt động. Chống tham nhũng ở Trung Quốc được tiến hành trên nhiều hướng, nhiều lĩnh vực khác nhau, “giải pháp tối ưu là kết hợp giữa các biện pháp cứng rắn và mềm dẻo; phòng đi đôi với chống, đề cao biện pháp phòng”[35]. Tham nhũng ở Trung Quốc bị trừng trị khá nặng, từ năm 1982, theo quy định của Bộ Luật hình sự, đưa, nhận hối lộ ở Trung Quốc có thể bị tù chung thân hoặc tử hình, mặc dù vậy, tham nhũng vẫn như một thứ ung nhọt xã hội, đang, sẽ còn tồn tại với những hình thức ngày càng tinh vi – điều đó cho thấy tính cam go của cuộc chiến tiêu trừ chúng. Cuộc chiến này đòi hỏi những thay đổi đột phá không chỉ từ quyết tâm, nỗ lực của Chính phủ, từ nhận thức, sự đồng lòng của người dân, mà còn từ khía cạnh văn hoá, đạo đức toàn xã hội. Mức độ quyết liệt, sự thành công của cuộc chiến là chỉ dấu quan trọng bậc nhất đo đạc “tín nhiệm xã hội” – điểm thành công ấn tượng sau một chặng đường dài Trung Quốc cải cách, mở cửa, song đang là “điểm nghẽn báo động” ở thời điểm hiện tại.
Hiện nay, Trung Quốc đang phải đối mặt với nguy cơ mất lợi thế nhân công giá rẻ do chính sách tự biến mình thành “xưởng lắp ráp toàn thế giới” và áp lực về lương bổng có nguy cơ gây ra lạm phát. Sau hàng loạt cuộc đình công tại các nhà máy của Trung Quốc và của nhiều doanh nghiệp nước ngoài, 11 tỉnh của Trung Quốc đồng loạt tăng lương tối thiểu cho công nhân viên và thợ thuyền như là một hành động “bù đắp” sau khi Bộ Nhân lực và An sinh xã hội quyết định hoãn tăng lương kể từ cuối năm 2008 do nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, mức tăng lương bình quân mới đạt 17%, so với các nước mới nổi ở  Đông Á, mức tối thiểu này vẫn thấp và còn thấp hơn tỷ lệ mà Ngân hàng Thế giới (WB) định ra cho các nước đang phát triển. Trung Quốc rất thiếu nguồn lực chất lượng cao làm việc ở những lĩnh vực khoa học – công nghệ tại thành phố trong khi thừa nhân lực không có tay nghề ở vùng nông thôn. Việc cải biến một nền sản xuất dựa vào lực lượng nhân công giá rẻ, dựa vào lao động phổ thông thành một nền sản xuất chú trọng chất xám, trước hết, đòi hỏi phải đầu tư một nguồn kinh phí khổng lồ (nhất là để nâng cao trình độ giáo dục còn rất thấp của dân cư[36]); đồng thời, khi nền “kinh tế chất xám” bước vào hoạt động sẽ dẫn tới nạn thất nghiệp tăng lên một cách gay gắt - tạo ra nguy cơ nghiêm trọng đe dọa ổn định xã hội. Trong nội tại xã hội Trung Quốc đang âm ỉ những mâu thuẫn không thể sớm khắc phục, có nguyên nhân khách quan từ phân bố địa dư và nguyên nhân chủ quan là chiến lược kinh tế của Ban lãnh đạo Trung Quốc có vẻ đã hết công hiệu và hiện giờ dường như đang bế tắc. Tư duy “phát triển nghiêng lệch”- đặt trọng tâm cải cách vào thành phố và vào một số vùng kinh tế, phát triển bằng mọi giá, chú trọng đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, xem nhẹ các chỉ tiêu mang tính xã hội khiến ở Trung Quốc hình thành ba khu vực kinh tế - xã hội với điều kiện phát triển lệch nhau, dẫn đến ba tốc độ tăng trưởng cách xa nhau[37]. Về chiến lược phát triển, từ khi Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách cách vào năm 1978, Trung Quốc đã đạt tốc độ tăng trưởng cao nhờ các tỉnh duyên hải được mở cửa làm ăn với bên ngoài, lấy xuất khẩu làm động lực, song chiến lược ấy cũng đồng thời tạo ra bất ổn mới: Ngày càng đào sâu sự chênh lệch về lợi tức và nhận thức giữa các địa phương, giữa thành thị với nông thôn, hình thành cơ cấu nhị nguyên phân tách thành thị với nông thôn. Giữa thành phố và nông thôn, giữa các vùng miền của Trung Quốc có sự phân hoá, khác biệt cao nhất thế giới, tới mức, các thống kê kinh tế - xã hội của nông thôn và thành phố phải tiến hành riêng rẽ giống như thống kê ở những quốc gia khác nhau[38]. Người nông dân Trung Quốc dường như “bị bỏ quên”, thậm chí bị “hy sinh”, trở thành quần thể dễ bị tổn thương. Nhận ra bất ổn đó, thế hệ lãnh đạo thứ ba của Trung Quốc (Giang Trạch Dân và Chu Dung Cơ) đã tìm cách đầu tư nhiều hơn vào các tỉnh kém phát triển nhưng không thành công. Thế hệ lãnh đạo thứ tư (Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo) muốn tái phân lợi tức cho các địa phương nghèo, xây dựng xã hội “tiểu khang”, song vấp phải sự phản đối của những tỉnh duyên hải đang chạy đua cùng các thị trường quốc tế và khai thác nguồn nhân lực dồi dào trong nước để phát huy lợi thế nhân công rẻ. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn của Trung Quốc có những vấn đề nóng bỏng, mà việc giải quyết không hề đơn giản: Cơ sở hạ tầng lạc hậu, phúc lợi sa sút; 300 triệu lao động thừa ở nông thôn di cư tự do vào thành phố kiếm việc làm; trẻ con nông thôn thất học, nông dân chiếm 70 % dân số nhưng chỉ 10 % có bảo hiểm y tế[39]; thu nhập giữa đô thị và nông thôn cách biệt ngày càng lớn (thu nhập của người dân nông thôn chỉ bằng 1/3 của người dân đô thị); nông dân mất đất, đói nghèo, các cuộc đấu tranh của nông dân bùng phát[40]... Xã hội Trung Quốc hình thành 10 tầng lớp[41] với hai tuyến bất đối xứng - quần thể đặc quyền đặc lợi và quần thể yếu thế. Chưa đầy 1% dân số Trung Quốc kiểm soát hơn 70% giá trị tài sản của cả nước[42]; 2% dân số Trung Quốc tiêu thụ 1/3 hàng xa xỉ phẩm thế giới[43]. Hiện nay, không sai khi nói rằng, “ở Trung Quốc, có một số xã hội hoàn toàn khác nhau, từ xã hội nông nghiệp cổ truyền đến xã hội hậu công nghiệp. Đó là những xã hội không chỉ chênh lệch nhau về mức sống, mà còn hoàn toàn khác nhau về tâm tính”[44].
Kinh tế thị trường thiếu một cơ chế quản trị hiệu quả đã đẩy phân hóa giàu nghèo, bất công xã hội, mâu thuẫn nội bộ lên mức báo động, khiến một bộ phận đông đảo nhân dân (kể cả lớp trẻ và giới trí thức) Trung Quốc tìm chỗ “nương thân” trong tôn giáo, làm bùng lên trào lưu phục hưng tôn giáo. Theo điều tra năm 2013, có đến 85% số người được hỏi cho biết có tin vào tôn giáo, hoặc ít nhất cũng tin rằng có một quyền lực siêu nhiên nào đó[45]. Phục hưng tôn giáo ở Trung Quốc được lý giải là vì “tuy Đảng có mang lại cho người dân cơ hội làm giàu và thăng tiến, nhưng không còn mang lại ý nghĩa, giá trị, trong khi xã hội đang đầy biến động. Từ một hình mẫu bình đẳng kiểu cộng sản đã chuyển sang một xã hội phức tạp, đa tầng, vô cùng bất bình đẳng và không có giá trị xã hội rõ ràng giúp con người trong ứng xử với xã hội và môi trường”[46]. Như vậy, chủ nghĩa vật chất đã tạo ra những lỗ hổng tinh thần và niềm tin tôn giáo trở thành bệ đỡ cho những người đang mất phương hướng có thể tồn tại và bớt sợ hãi khi nghĩ đến tương lai.
Về tổng thể, những thách thức, từ tái cân bằng kinh tế, thu hẹp khoảng cách thành thị – nông thôn, đối phó với biển đổi khí hậu, thất nghiệp, tham nhũng, thích ứng với sự dịch chuyển quyền lực toàn cầu… là những “căn bệnh nan y” của xã hội Trung Quốc, trở thành đường dẫn, link tới một cuộc “khủng hoảng tín nhiệm xã hội”[47]. Xuất hiện những lực lượng xã hội mới, những xu hướng mới, “những nhân vật chính trị có uy tín cao trong xã hội, các doanh nhân thành đạt, các học giả, các nhà văn, nhà báo danh tiếng và các blogger có tầm ảnh hưởng xã hội (…)- những chiến sĩ đấu tranh cho công bằng xã hội[48]. Những xu hướng đó, như nhà nghiên cứu Bùi Mẫn Hân[49] bình luận, đang làm “thay đổi đáng kể cán cân quyền lực giữa Đảng Cộng sản và xã hội Trung Quốc theo chiều hướng Đảng mất dần sự tín nhiệm và quyền kiểm soát, còn xã hội thì đang tích thêm sinh lực và sự tự tin”[50].
Như làn sóng ngầm, những xu hướng mới tại đất nước này vẫn đang tiếp tục chuyển động, tác động trực tiếp đến tương quan quyền lực chính trị, khiến những người lãnh đạo thuộc thế hệ thứ năm của Trung Quốc không thể không lo lắng, tích cực thúc đẩy cải cách. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (khóa XVIII, 11-2013) được giới quan sát đánh giá là một dấu mốc quan trọng trong nỗ lực cải cách theo chiều sâu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đưa Trung Quốc bước vào một khởi đầu mới trong quá trình phát triển, nhằm mục tiêu hoàn thiệnphát triển chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, thực hiện “giấc mơ Trung Hoa”[51] phục hưng dân tộc. Nội dung về kinh tế (thị trường đóng vai trò quyết định) của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (khóa XVIII) cho thấy Đảng Cộng sản không chỉ mạnh dạn mà còn dứt khoát đưa nền kinh tế vận hành đúng đường ray, tuân thủ quy luật. Về xã hội, để trấn an dư luận, Đảng Cộng sản Trung Quốc nới lỏng chính sách một con, giảm án tử hình, xóa bỏ chế độ “lao cải”[52], tăng cường giám sát và kỷ luật trong bộ máy chính trị, năng cao năng lực bộ máy hành chính công, nghiêm trị tham nhũng…. Tuy nhiên, trong lĩnh vực chính trị, người ta lại không nhìn thấy những thay đổi mong đợi, nhằm hiện đại hóa đời sống chính trị một cách mạnh mẽ, dù vào thời điểm bắt đầu cuộc cải cách kinh tế lần thứ ba, điều đó là hết sức cần thiết. Dễ nhận thấy rằng, nếu chỉ tập trung vào cải cách kinh tế, bỏ qua, hoặc thiếu những cởi mở chính trị, rất nhiều khả năng Trung Quốc sẽ rơi vào tình thế lúng túng, tựa như lấy dây tự trói tay mình và cuối cùng có thể bị dồn vào chân tường – lúc đó, liệu Tập Cận Bình có đủ dũng khí “chặt cầu để tiến”?



[1] Tề Quế Trần: Trung Quốc 20 năm cải cách mở cửa cải cách chế độ sở hữu, Nxb. Chính trị quốc gia, 2001, tr.62.
[2] Thay vì cần phải thừa nhận sự tồn tại của kinh tế hàng hóa, phải xác định việc xóa bỏ sở hữu tư nhân là một quá trình lâu dài, là kết quả của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất đạt tới trình độ rất cao, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiến hành công cuộc quốc hữu hóa thần tốc, quyết liệt, chuyển nhanh, chuyển gấp các thành phần kinh tế thành chế độ công hữu đơn nhất với hai thành phần kinh tế cơ bản (kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể) trên nền tảng nền kinh tế nông nghiệp tiểu nông, lực lượng sản xuất kém phát triển, thủ công là chính, sản xuất mất động lực phát triển, nền kinh tế thiếu cân đối, kinh tế - xã hội khủng hoảng trầm trọng, đời sống người dân khó khăn, thiếu thốn.
[3] Tề Quế Trần: Trung Quốc 20 năm cải cách mở cửa cải cách chế độ sở hữu, Sđd, tr. 68.
[4] Tề Quế Trần: Trung Quốc 20 năm cải cách mở cửa cải cách chế độ sở hữu, Sđd, tr. 67.
[5] Nguyễn Kim Bảo: Thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có đặc sắc Trung Quốc (Một số đột phá về mặt lý luận và thực tiễn từ Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc đến nay), Nxb. Khoa học Xã hội, 2002, tr. 310.
[6] Nguyễn Kim Bảo: Thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có đặc sắc Trung Quốc, Sđd, tr. 311.
[7] Giang Trạch Dân ở vị trí lãnh đạo cao nhất Trung Quốc 11 năm, từ năm 1992 đến năm 2003.
[8] China will become the luxury consumption of the world, People Daily, 29-9-2011.
[9] China will become the luxury consumption of the world, People Daily, 29-9-2011.

[10] China's luxury consumption hits $46 billion, People's Daily Online, 15-1-2011.

[11] China's luxury consumption hits $46 billion, Ibid.

[12] TS. Phạm Hồng Thái: Hồng Kông sau 11 năm trở về Trung Quốc, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh số 25 (2009), tr. 105. 
[13] TS Phạm Hồng Thái: Hồng Kông sau 11 năm trở về Trung Quốc, Tlđd, tr.106.

[14] Nguyễn Tuyến: Tại sao Trung Quốc chấp nhận “ván bài” cờ bạc ở Macao? Vef.vn, 20-02-2011.

[15] Л.И. Сосковец: Глобальные проблемы современности и Азиатско-Тихоокеанский регион, M. 2005.
[16]Александр Храмчихин: Почему Китай сломает весь мир, Агенство политических новостей, 10-9-2007.
[17] Джан Хэ лань: Рост исленности  населения -Факор социаьного давления в Китаеecsocman.hse.ru, 2000г
[18] Джан Хэ лань: Рост исленности  населения -Факор социаьного давления в Китае,  Указ. Соч.
[19] Джан Хэ лань: Рост исленности  населения -Факор социаьного давления в Китае,  Указ. Соч.
[20] Александр Храмчихин: Почему Китай сломает весь мир, Указ. Соч.
[21]Джан Хэ лань: Рост исленности  населения -Факор социаьного давления в Китае,  Указ. Соч.
[22] Джан Хэ лань: Рост исленности  населения -Факор социаьного давления в Китае,  Указ. Соч.
[23] Джан Хэ лань: Рост исленности  населения -Факор социаьного давления в Китае,  Указ. Соч.
[24]Новая программа здравоохранения поможет решить проблему старения населения КНР, russian.china.org.cn, 17-10-2013
[25] Китай готов для прорыва на внутреннем рынке, http://rus.ruvr.ru/

[26] Minxin Pei: China’s Troubled Bourbons, Project Syndicate, 31-10-2012.

[27] Huy Đường: Nạn “chảy máu” tầng lớp tinh hoa Trung Quốc, Tia sáng, 17-1-2011.
[28] Trung Quốc bức xúc nạn chảy máu chất xám, Vn.Economy, 8-5-2007.
[29] Huy Đường: Nạn “chảy máu” tầng lớp tinh hoa Trung Quốc, Tlđd.
[30] Trung Quốc hiện đang triển khai Chương trình 111 với nhiều hỗ trợ về tài chính, mục tiêu sẽ thu hút khoảng 1000 học giả từ 100 trường đại học hàng đầu trở về với mục tiêu xây dựng 100 nhóm nghiên cứu sáng tạo đẳng cấp quốc tế tại các đại học Trung Quốc. Theo kế hoạch, các chuyên gia này sẽ làm việc với các chuyên gia trong nước qua đó nâng cao chất lượng nghiên cứu nói riêng cũng như khả năng cạnh tranh khoa học nói chung của Trung Quốc trên bình diện quốc tế. Chương trình được khởi động từ năm 2005 này là minh chứng cho sự quyết tâm cũng như nhu cầu cấp bách của việc thu hút các nhà khoa học trình độ cao trở về. Cho đến nay Chương trình 111 đã lựa chọn được 662 học giả và hiện đang có 310 người đang làm việc tại các đại học nghiên cứu ở Trung Quốc. Tuy vậy, chương trình này cũng tạo ra một số vấn đề không dự báo được từ trước. Nhiều đại học Trung Quốc không hiểu hết bản chất của thị trường lao động chất xám quốc tế và trong quá trình tuyển chọn, họ thường chỉ dựa vào sơ yếu lý lịch, kết quả học tập, chức danh khoa học, quan hệ cá nhân và thư giới thiệu chứ không có những đánh giá cẩn thận về sự phù hợp của ứng viên với môi trường và điều kiện làm việc của họ; đồng thời, nhiều học giả đồng ý quay trở về đã bước đến giai đoạn xế chiều của sự nghiệp tại Hoa Kỳ hay Anh Quốc,  nhiều người lại lợi dụng chương trình này để tạo danh tiếng nhằm thực hiện những mục đích cá nhân khác. Và sự thực là các nhà khoa học hàng đầu từ các đại học danh tiếng phương Tây không muốn trở về hẳn. Họ thường chỉ chấp nhận một vị trí bán thời gian để có thể định kỳ trở về giảng dạy, tư vấn và hợp tác với các giáo sư sở tại (Nguồn: Philip G. Altbach & Wanhua Ma: Trung Quốc- khó thu hút tri thức về nước làm việc, Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, số 245/2011, tr.29).
[31] Опыт успешной борьбы с коррупцией в Китае. Взгляд из России, Ні корупції!, 18-11-2013.

[32] Как борятся с коррупцией в Китае: 150 тысяч арестов, rus.postimees.ee

[33] Опыт успешной борьбы с коррупцией в Китае. Взгляд из России, Указ. Соч.
[34] Опыт успешной борьбы с коррупцией в Китае. Взгляд из России, Указ. Соч.
[35] Опыт успешной борьбы с коррупцией в Китае. Взгляд из России, Указ. Соч.
[36] Hiện nay (2013), Trung Quốc có hơn 200 triệu người mù chữ; chỉ có 25% dân số có trình độ trung học phổ thông; 1% - đại học và trên đại học (Nguồn: Л.И. Сосковец: Глобальные проблемы современности и Азиатско-Тихоокеанский регион, Указ. Соч).
[37] Tổng thu nhập của các tỉnh duyên hải miền Đông - Nam Quảng Đông cao hơn 90 lần so với tổng thu nhập của khu tự trị Tây Tạng phía Tây - Nam nước này; nếu xem các vùng miền của Trung Quốc như những nước khác nhau, thì Quảng Đông về quy mô kinh tế được xếp vào loại 30 nước hàng đầu, vượt cả Argentina, trong khi đó, Tây Tạng đứng vào hàng 130 - 140 thuộc nhóm nước Nigiêria, Malawi, Tadjikistan (Nguồn: Александр Храмчихин: Почему Китай сломает весь мир, Указ. Соч).
[38] Александр Храмчихин: Почему Китай сломает весь мир, Указ. Соч.
[39] Đào Thế Tuấn, Chính sách nông thôn, nông dân và nông nghiệp mới ở Trung Quốc, Web Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn - IPSARD, 4-1-2008.
[40] Sách xanh “Phân tích và dự báo tình hình xã hội Trung Quốc” do Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc công bố năm 2005 cho thấy, số lượng “sự kiện có tính đám đông” phát sinh ở Trung Quốc từ chỗ 8.700 vụ năm 1993 đã tăng lên đến 60.000 vụ năm 2003. Năm 2008, số lượng vụ phản đối “có tính đám đông” không những nhiều, qui mô lớn, mà hành vi càng thêm dữ dội. Điều đáng chú ý là những vụ này phần lớn xảy ra ở nông thôn. Thống kê mới nhất (2013), mỗi ngày tại đất nước này diễn ra khoảng 500 các vụ bạo loạn, chống đối tập thể và đình công, tăng gấp bốn lần so với một thập kỷ trước (Nguồn: Minxin Pei: China’s Troubled Bourbons, Project Syndicate, 31-10-2012).
[41] Cao nhất là tầng lớp cán bộ quản lý nhà nước và xã hội; thứ nhì là tầng lớp giám đốc doanh nghiệp quốc doanh; thứ ba là tầng lớp chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh; thứ 8, 9 là tầng lớp công nhân xí nghiệp, lao động nông nghiệp; thứ 10 là tầng lớp vô nghề nghiệp, thất nghiệp và nửa thất nghiệp. Ba tầng lớp trên cùng thuộc vào quần thể đặc quyền đặc lợi; ba tầng lớp dưới cùng thuộc quần thể yếu thế, đông người nhất, nghèo nhất và lợi ích của họ bị xâm phạm nhiều nhất (Nguồn: Nguyễn Hải Hoành, Xã hội công dân Trung Quốc, Tạp chí Tia sáng, 4-5-2012)
[42] Hồ Quang Lợi: Về “giấc mơ Trung Hoa”, Nhandan online.

[43] 2% of China's public consumes one-third of world's luxury goods, china.org.cn, 8-10-2013.

[44] Александр Храмчихин: Почему Китай сломает весь мир, Указ. Соч.

[45] China: The Return of Religion, The Straits Times/AsiaNews, Jan 12, 2008.

[46]Lamin Sanneh: The Return of Religion: Currents of Resurgence, Convergence, and Divergence, The Cresset, Trinity 2009 (Vol LXXII), No. 5, p.20.
[47] “Khủng hoảng tín nhiệm xã hội” có nghĩa là “chính quyền của dân” không nhận được sự tín nhiệm của người dân, trên thực tế người dân không còn coi chính quyền là người đại diện cho mình. Nói cách khác, đối với một bộ phận quần chúng nhân dân, chính quyền không còn đồng hành với họ, không thể hiện được ý chí của họ. Một cuộc khủng hoảng tín nhiệm xã hội sẽ gây ra sự nhiễu loạn về tư tưởng, gây mất niềm tin của dân chúng vào hệ tư tưởng hiện hành của xã hội.
[48] Minxin Pei: China’s Troubled Bourbons, Ibid.
[49] Giáo sư về quản trị tại Claremont MacKenna College và chuyên viên cao cấp không thường trú của Quỹ Marshall Đức tại Hoa Kỳ.
[50] Minxin Pei: China’s Troubled Bourbons, Ibid.
[51] Ngày 8-4-213, nội hàm “giấc mơ Trung Hoa” được Tập Cận Bình giải thích rõ trong phát biểu khai mạc Diễn đàn châu Á Bác Ngao (BFA) như sau: Vào giữa thế kỷ XXI, Trung Quốc sẽ trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa hiện đại, thịnh vượng, hùng mạnh, dân chủ, văn hóa tiên tiến, hòa hợp và giấc mơ Trung Hoa, cụ thể là sự phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa sẽ thành hiện thực.
[52] Hệ thống trại cải tạo lao động ra đời từ năm 1957 để giam giữ những người phạm các tội danh không nghiêm trọng như trộm cắp, gây rối trật tự, mại dâm, sử dụng ma túy, giam giữ những người bất đồng chính kiến. Hệ thống này này tồn tại nhiều điều bất hợp lý nguy hiểm như chính quyền địa phương và công an có quyền ra lệnh giam giữ mà không cần ra tòa xét xử. Tuy nhiên, người ta cũng cho rằng, giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn có thể tiếp tục sử dụng hệ thống lao cải với tên gọi khác, hoặc thậm chí không cần đặt tên cho hệ thống này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!