Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014

ĐIỆN BIÊN PHỦ - GENÈVE: CHIẾN THẮNG CÓ DÀNH CHO “NGƯỜI TRONG CUỘC”?

Nguyễn Thị Mai Hoa
Ngày 7-5-1954, một ngày trước khi giai đoạn thứ hai của Hội nghị Genève khai mạc, cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ. Điện Biên Phủ không chỉ đặt một dấu ấn quan trọng trong lịch sử Việt Nam, mà còn trở thành một sự kiện gắn với lịch sử nước Pháp và thế giới. Tại thời điểm đó, sự kiện “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã có ảnh hưởng quan trọng đối với Hội nghị Genève – Hội nghị sắp xếp lại thế giới nửa sau thế kỷ XX; tuy nhiên, kết quả của Hội nghị lại đặt ra những câu hỏi cho hậu thế tiếp tục tìm kiếm câu trả lời…

1- Điện Biên Phủ - “cuộc so găng lịch sử”
Cho đến mùa Xuân năm 1953, cục diện chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương chuyển biến theo chiều hướng bất lợi cho nước Pháp. Những thất bại liên tiếp trên chiến trường đẩy Pháp vào một tình thế không mấy dễ chịu, ngày càng lệ thuộc vào Mỹ. Cuộc chiến giằng co với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm bộc lộ rõ thêm những yếu điểm trong hoạt động quân sự của quân đội dày dạn kinh nghiệm chinh chiến và khiến ngân khố nước Pháp thâm hụt trầm trọng[1]. Bên cạnh đó, nước Pháp vừa phải căng mình “chống lại chủ nghĩa cộng sản” bảo vệ châu Âu, lại vừa phải gồng mình níu giữ hệ thống thuộc địa châu Á. Các chính phủ của nền Cộng hòa thứ tư “bị co kéo giữa những cam kết và những ưu tiên không thể dung hợp được với nhau”[2]. Tình hình trong và ngoài nước đã đặt Chính phủ Réne Mayer trước tình thế ''lửa cháy hai đầu”: Hoặc bị thất bại trong cuộc chiến Đông Dương, hoặc bị Mỹ thế chân. Bối cảnh đó đòi hỏi nước Pháp phải nhanh chóng tìm ra một giải pháp cho cuộc xung đột - một giải pháp như Bernard B Fall nhận xét: “Nếu không giành được chiến thắng thì cũng tạo ra một tình thế cho phép quân đội quốc gia các nước liên kết Việt Nam, Cao Miên, Lào thanh toán được chiến tranh du kích, một khi quân đội chính quy Pháp đã tiêu diệt được đội quân chủ lực của Việt Minh sau một loạt những trận giao chiến lớn”[3].
Nhằm cứu vãn tình hình, hy vọng tìm ''một lối thoát danh dự'', Tổng Chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương một lần nữa được thay thế - R. Salan kế nhiệm J. L. de Tassigny bị cách chức, thay bằng Tướng H. Navarre - viên tướng sáng giá của nước Pháp. Trước khi H. Navarre sang Đông Dương, Thủ tướng Réne Mayer chỉ thị: “Ngài phải đi tới chỗ tạo ra được tình huống để chúng ta có thể thương lượng với Việt Minh trong những điều kiện tốt, thuận lợi cho chúng ta”[4]. Nước Pháp đặt cược vào canh bạc lớn - giải quyết cuộc chiến tranh “một cách thể diện” bởi H.Navarre – người sẽ phải đưa ra, tổ chức và thực thi một kế hoạch mang lại chiến thắng quân sự để nước Pháp có thể thoái lui khỏi cuộc chiến tranh Đông Dương một cách ít thua thiệt nhất.
Tháng 5-1953, sang Đông Dương, sau khi khảo sát, phân tích thực địa, H. Navarre nhanh chóng vạch ra một kế hoạch gồm bốn nội dung: Mục đích, cách thức tiến hành chiến tranh, kế hoạch tác chiến và phương tiện thực hiện. Về hoạt động quân sự, H. Navarre dự tính vào Thu - Đông 1953-1954, sẽ “xây dựng một lực lượng chủ lực tác chiến gồm những đơn vị lớn có khả năng đối chọi với các sư đoàn Việt Minh và phát triển các đội quân của các nước liên kết sẽ thay thế quân đội Pháp tại Đông Dương”[5]; sau đó, đến năm 1954-1955, sẽ tiến công “để chứng minh cho Việt Minh thấy rằng nếu như chúng ta (tức phía Pháp -TG) không thắng trong cuộc chiến tranh thì họ cũng không có hy vọng gì thắng ta bằng quân sự và do đó cần phải thương lượng''[6]. Trong bản kế hoạch, địa danh Điện Biên Phủ không hề được H. Navarre nhắc đến.
Kế hoạch H. Navarre được Mỹ đánh giá cao, tin tưởng rằng kế hoạch đó nếu không phải là một thắng lợi hoàn toàn, thì ít nhất cũng thu được kết quả nhất định về quân sự. Để thực hiện kế hoạch chiến lược quan trọng này, Pháp tăng thêm viện binh, phát triển quân đội, xây dựng khối cơ động chiến lược. Sau cuộc tiến quân của bộ đội chủ lực Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lên Tây Bắc, cái tên “Điện Biên Phủ” bắt đầu được nhắc đến thường xuyên hơn trong các cuộc thảo luận của các tướng lĩnh quân đội Pháp. Tháng 11-1953, Bộ Chỉ huy Quân đội Pháp vội vã điều lực lượng cơ động nhảy dù xuống chiếm Điện Biên Phủ, biến nơi đây thành “cột mốc của thế giới tự do mà cộng sản không thể vượt qua”[7], thành “Verdun” của Đông Nam Á, bảo vệ Tây Bắc, Thượng Lào, gây “mất ổn định trong vùng hậu phương quân địch (Việt Minh-TG), buộc nó phải phân tán lực lượng và bảo vệ các nơi bị uy hiếp”[8]. Với vị trí đắc địa[9] và tiềm lực quân sự to lớn[10], “con nhím thép” Điện Biên Phủ được xây dựng thành pháo đài bất khả xâm phạm mà H. Navarre coi như thứ thuốc trị bách bệnh, giải quyết những khó khăn của chiến tranh Đông Dương và quyết bảo vệ Điện Biên Phủ bằng mọi giá. Có thể thấy, lúng túng trên chiến trường, Chính phủ Pháp, một mặt, tìm kiếm cơ hội tái lập hòa bình; mặt khác, luôn hy vọng kế hoạch quân sự của Đại tướng H.Navarre đem lại thành công, tạo ưu thế thương thuyết cho nước Pháp.
Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sự kiện Pháp đổ quân xuống Điện Biên Phủ được đánh giá theo chiều hướng tích cực, nhận định đó là cách Pháp đối phó trong tình huống lúng túng, bị động: “Vô luận rồi đây tình hình địch thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản có lợi cho ta…”[11]. Trung tuần tháng 12-1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tạo bước ngoặt mới cho cuộc chiến trước khi Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương. Dốc phần lớn nguồn lực cho chiến dịch, các Đại đoàn bộ binh 308, 304, 312, 316, Đại đoàn công pháo 351 được lệnh sẵn sàng. Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam cung cấp cho chiến dịch khối lượng vật chất to lớn[12].
Như vậy, với quyết tâm của hai bên tham chiếm, lực lượng con người và vật chất được dốc vào thung lũng lòng chảo vùng Tây Bắc, Điện Biên Phủ trở thành nơi đọ sức, cuộc chạy đua nước rút quyết liệt, mà mỗi bên đều gửi gắm vào đó những mục tiêu quyết tử, có giá trị quyết định trong ván cờ cuối cùng. Đặc biệt, cuộc quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ lại càng ý nghĩa, vai trò to lớn, quan trọng hơn, khi tin tức về một hội nghị quốc tế giải quyết vấn đề Triều Tiên và Đông Dương đang vọng về. Mục tiêu trên bàn đàm phán của một hội nghị như vậy (Hội nghị Genève) đã biến Điện Biên Phủ thành đấu trường khốc liệt, khi cả hai bên tham chiến đều huy động nguồn lực con người và vật chất to lớn. Với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hoạt động quân sự tại Điện Biên Phủ không còn đơn thuần là hoạt động quân sự, mà mang một ý nghĩa lớn hơn: Chính trị - quân sự. Điện Biên Phủ đóng vai trò “người trải thảm” cho con đường đưa Chính phủ Hồ Chí Minh đến Genève.
2- Đường đến Genève
Những năm 1950-1954, nền chính trị toàn cầu diễn ra những thay đổi đòi hỏi những thực thể của nó phải có chiến lược thích ứng. Mặc dù còn mờ nhạt, song sau Chiến tranh Triều Tiên, đã dần xuất hiện những sự kiện – những nốt chấm phá phản ánh sự chia rẽ, mâu thuẫn trong nội bộ mỗi khối cả Đông và Tây; đồng thời, khuynh hướng khẳng định tính độc lập của mỗi quốc gia đang bộc lộ dần. Trong tình hình đó, ngày 28-9-1953, Liên Xô kêu gọi các nước có liên quan tổ chức một hội nghị quốc tế, xem xét, đề xuất các biện pháp giảm thiểu căng thẳng trong tình hình thế giới, giải quyết vấn đề chiến tranh – hòa bình ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á[13]. Ngày 25-1-1954, Hội nghị cấp Bộ trưởng Ngoại giao giữa Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ khai mạc tại Berlin ra thông báo sẽ triệu tập Hội nghị Genève, bàn giải pháp cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương. Với đặc điểm thế giới phân cực, cuộc chạy đua trên đường đến Genève diễn ra chủ yếu theo hai trục Đông, Tây.
Trong Hội nghị Tứ cường (1-1954), để có thêm đồng minh làm đối trọng, Liên Xô tích cực đấu tranh để Trung Quốc được tham gia Hội nghị. Mặc dù Mỹ kiên quyết phản đối, song trong xu thế các nước đều muốn hòa đàm, cuối cùng Mỹ buộc phải nhượng bộ. Trước thềm Hội nghị Genève, Liên Xô, Trung Quốc liên hệ chặt chẽ, thường xuyên họp bàn, trao đổi, quyết định phương châm, đối sách và các hoạt động phối hợp ngoại giao. Hai nước nhất trí để Liên Xô soạn thảo phương án cụ thể cho các cuộc đàm phán ở Genève. Đối với vấn đề Đông Dương, liên quan trực tiếp đến Việt Nam, nội dung quan trọng có tính “tử huyệt”, thu hút sự chú ý đặc biệt của mọi thành phần tham gia Hội nghị là sự toàn vẹn lãnh thổ và quyền độc lập dân tộc.
Chi phối bởi tư tưởng “chung sống hoà bình” và mục tiêu vừa kiềm chế, vừa tránh đụng độ với Mỹ, cả Liên Xô, Trung Quốc đều muốn giải quyết êm thấm mọi chuyện trên tinh thần nhượng bộ và thỏa hiệp. Đối với vấn đề “sinh tử” của Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc thống nhất phương án “vạch ranh giới đình chiến ở Đông Dương giống như Triều Tiên”[14], lấy “vĩ tuyến 16 độ Bắc như là một trong những phương án để xem xét”[15]. Phương án này hình thành tương đối sớm, không lâu sau khi Hội nghị Tứ cường khởi họp (1-1954) và được xúc tiến tích cực từ tháng 3-1954. Ngày 2-3-1954, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi điện cho Đảng Lao động Việt Nam, nêu vấn đề đình chiến và xác định giới tuyến, nói rõ: “Đường giới tuyến này càng xuống phía Nam càng tốt. Có thể tham khảo vĩ tuyến 16 độ Bắc”[16]. Hội đàm song phương Xô- Trung ngày 6-3-1954, hai nước khẳng định lại quan điểm, nhấn mạnh: “Liên quan đến lập lại hòa bình ở Đông Dương, nếu muốn đình chiến, tốt nhất nên có một giới tuyến tương đối cố định, phân chia ranh giới giữa Nam và Bắc, như vĩ tuyến 16 chẳng hạn”[17]. Nhận xét về đường ranh giới được đặt tại “vĩ độ 16”, Đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô Trương Văn Thiên cho rằng, đó là lựa chọn “có lợi cho Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh nên và cần phải đồng ý khi đề nghị này được nêu lên chính thức”[18]. Nhằm bắn tín hiệu cho “phía bên kia”, đầu tháng 3-1954, trao đổi với nhân viên của Đại sứ quán Mỹ ở London và nhân viên Bộ Ngoại giao Anh (G. Holerom), hai nhà ngoại giao Liên Xô (Rodionov, Belokhvostikov) đã “vô tình” đề cập đến quan điểm giải quyết vấn đề Việt Nam của Liên Xô theo mô thức Triều Tiên và nhắc đến vĩ tuyến 16[19].
Có vẻ như hình mẫu cho đình chiến Đông Dương đã được lựa chọn và mọi chuyện đã được quyết định, ý kiến, nguyện vọng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ còn là hình thức. I.V. Gaiduk bình luận: “Đến Moscow vào đêm trước của Hội nghị Genève, phái đoàn Việt Nam do Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu đã không được thảo luận về phương thức, con đường giải quyết vấn đề Đông Dương, mà chỉ còn cách đồng ý với Liên Xô, Trung Quốc và phối hợp thực hiện những vấn đề về chiến thuật[20]. Thêm một minh chứng thuyết phục cho nhận định của I.V. Gaiduk là Bức điện Chu Ân Lai gửi về cho Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ báo cáo tình hình cuộc hội đàm ngày 22-4-1954 giữa Liên Xô (Malenkov, Molotov, Khrushchev), Trung Quốc (Chu Ân Lai, Vương Gia Tường), Việt Nam (Hồ Chí Minh)[21] về lập trường và phối hợp hành động ở Genève. Bức điện viết: “Liên Xô hoàn toàn nhất trí với ý kiến về tình hình Đông Dương và với các chiến lược, chính sách của chúng ta, cho rằng quan điểm/nội dung những tài liệu [chúng ta chuẩn bị] là chính xác”[22]. Hồi ký của N. Khrushchev về cuộc họp trù bị ba bên tại Moscow góp phần lý giải đầy đủ hơn một trong những nguyên nhân mà Liên Xô nhanh chóng đồng ý với “chiến lược, chính sách” của Trung Quốc về vấn đề Đông Dương. Theo N. Khrushchev, lập trường ở Hội nghị Genève được xác định căn cứ trên tình hình thực tiễn Việt Nam, trong khi tin tức về Việt Nam không mấy khả quan[23]. N.Khrushchev cung cấp một thông tin đáng lưu ý: Trước một trong những phiên họp tại Hội trường Catherine iện Kremlin), chủ động nói chuyện riêng với N. Khrushchev, Chu Ân Lai thông báo rằng tình hình Việt Nam hết sức vô vọng, nếu không nhanh chóng ký Hiệp định đình chiến, phong trào kháng chiến Việt Nam sẽ không thể cầm cự[24].
Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 13-3-1954 (cùng ngày chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn), Hội đồng chính phủ Việt Nam nhóm họp, bày tỏ quan điểm tán thành Hội nghị Genève, thảo luận về lập trường, phương châm đấu tranh ngoại giao và cử Đoàn đại biểu tham gia Hội nghị (do Phạm Văn Đồng dẫn đầu). Trong quá trình thảo luận, vấn đề khó khăn nhất là xác định giới tuyến đình chiến. Sau nhiều tranh luận, Việt Nam chưa nhất trí trong vấn đề này, chủ trương vừa đánh, vừa đàm kéo dài cho đến khi có ưu thế hơn đối phương và đợi đến lúc ở Genève đạt được được thoả thuận chính trị phù hợp rồi mới đình chiến, thậm chí chỉ đồng ý đình chiến về nguyên tắc, còn nội dung đình chiến cụ thể phụ thuộc vào sự phát triển của tình hình.
Về phía khối các nước “cực Tây”, Pháp là quốc gia có nhiều quyền lợi nhất được mang ra thương thảo ở Hội nghị Genève, song đồng thời cũng là nước ở trong tình thế bất lợi về quân sự và ngoại giao. Tuy tìm kiếm cơ hội giải quyết chiến tranh Đông Dương tại Genève thông qua thương lượng, song Pháp đặt mục tiêu phải  ở tư thế áp đảo, nhằm đạt những điều khoản có lợi nhất – cuộc thương lượng như De Gaulle minh định: “Đó không phải là nhượng bộ, đó là hòa bình của vũ trang”[25]. Vì thế, Pháp quyết tâm bảo vệ Điện Biên Phủ đến cùng, cho rằng, “nếu giữ được Điện Biên Phủ có nghĩa là cứu được xứ Đông Dương thuộc Pháp…”[26]. Do vậy, toàn bộ “câu chuyện” của Pháp và Anh, Mỹ trước thềm Hội nghị là bàn về quan điểm cũng như vấn đề “liên minh hành động” trước tình thế Pháp ngày càng nguy ngập và tập đoàn Điện Biên Phủ đứng trên bờ vực thất thủ. Kiên trì bám giữ quan điểm “chỉ cần Điện Biên Phủ còn trong tay quân đội Pháp, thì cục diện trên bàn đàm phán ở Genève của phe phương Tây không khốn đốn đến mức không thể thu xếp”[27], Pháp tích cực thuyết phục, vận động Anh và Mỹ trợ giúp quân sự trực tiếp.
Lo lắng gìn giữ vị trí cường quốc, Anh quốc e ngại phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Dương tác động đến hệ thống thuộc địa rộng lớn của mình, nên có tâm thế ủng hộ nước Pháp. Tuy nhiên, phân tích tình hình, nhận thấy đe dọa quân sự không giúp gì cho việc giải quyết vấn đề Đông Dương, trái lại có thể dẫn đến cuộc xung đột lớn hơn, Anh kiên định lập trường không can dự.
Thực hiện “vai trò bảo vệ thế giới” và “sứ mệnh ngăn chặn làn sóng đỏ”, Hoa Kỳ can thiệp ngày càng sâu vào chiến tranh Đông Dương. Song dù đã đổ lượng vật chất to lớn[28], yểm trợ người Pháp “ngăn chặn họa cộng sản”, nhưng “Pháp không thể dùng biện pháp quân sự để tiêu diệt Việt Minh, tình hình Đông Dương đang xấu đi, Cộng sản chiếm vị trí khống chế trong phong trào dân tộc”[29]; do vậy, Mỹ hoàn toàn không hài lòng về hiệu quả chính sách của Pháp. Không mấy sốt sắng với việc tổ chức Hội nghị Genève, Mỹ nghiêng về phương án can thiệp và trợ giúp quân sự cho Pháp, song phụ thuộc vào việc “thuyết phục được Anh phối hợp nhất trí cùng với Mỹ, chỉ có như vậy Quốc hội Mỹ mới có thể phê chuẩn”[30]. Tuy nhiên, thái độ của Anh khá cứng rắn, kiên quyết phản đối, kế hoạch bất thành, cuối cùng, Mỹ tuyên bố sẽ không hành động trong khi chờ kết quả của Hội nghị Genève. Đặc biệt, lập trường của Anh, Mỹ được củng cố vững chắc thêm, khi từ tháng 4-1954, qua thăm dò, hai nước này đã biết rõ về quan điểm chia cắt Việt Nam của Liên Xô và Trung Quốc.
Liên quan tới Quốc gia Việt Nam, ngày 4-6-1954, Thủ tướng Pháp Joseph Laniel và Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Nguyễn Phúc Bửu Lộc ký Hiệp ước công nhận Quốc gia Việt Nam độc lập hoàn toàn[31]. Ít lâu sau, Hiệp ước liên hiệp Việt-Pháp thỏa thuận về việc Việt Nam nằm trong Liên hiệp Pháp cũng được ký kết[32]. Trở thành Thủ tướng, Mandès France hứa tôn trọng những thỏa ước này - đây cũng là cơ sở để Quốc gia Việt Nam yêu cầu người Pháp phải tôn trọng sự thống nhất lãnh thổ của Việt Nam, chống lại mọi sự chia cắt; coi sự hiện diện của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Hội nghị là không có tính pháp lý.
Như vậy, bàn cờ Genève đã được sắp đặt sẵn sàng. Đó là ván cờ giữa các nước lớn đầy phức tạp, mâu thuẫn. Trên bàn cờ ấy, số phận các nước nhỏ được định đoạt và  khó lòng tránh khỏi những truân chuyên, đoạn trường
3- Bàn cờ Genève
Ngày 26-4-1954, Hội nghị Genève chính thức khai mạc. Một ngày sau, ngày 27-4-1954, Anh, Mỹ uỷ nhiệm Pháp gặp Liên Xô thỏa thuận về thành phần Hội nghị. Trong cơ cấu Hội nghị, Anh, Pháp, Mỹ loại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhờ sự nỗ lực và mềm dẻo[33] của Liên Xô, ngày 2-5-1954, các nước chấp nhận sự có mặt của Việt Nam - Việt Nam có điều kiện tham gia vào một sân chơi lớn, dù chưa được các nước Anh, Mỹ, Pháp công nhận về ngoại giao.
Giai đoạn một của Hội nghị Genève chủ yếu bàn về vấn đề Triều Tiên, song dễ dàng nhận thấy dù có vị trí quan trọng trên bàn nghị sự, nhưng giải quyết xung đột Triều Tiên không thuộc tâm điểm chú ý của các nước. Cuộc tranh cãi hứa hẹn những gay cấn và kịch tính còn đang ở phía trước - thắng lợi của chiến dịch tấn công đợt 2 ở Điện Biên Phủ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trùng với ngày khai mạc Hội nghị đã phần nào nói lên điều đó.
Ngày 1-5-1954, giữa lúc chiến sự đang diễn ra căng thẳng, ác liệt và những thảo luận trên bàn Hội nghị chưa tiến được bao xa, Chu Ân Lai gửi điện cho Vi Quốc Thanh đề nghị “xem xét kỹ khả năng tấn công tiêu diệt Điện Biên Phủ, còn cần bao lâu nữa mới có thể hoàn toàn hoặc cơ bản tiêu diệt được bọn địch, mong điện trả lời sớm”[34]. Từ ngày 1-5-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam đẩy mạnh tổng tiến công, tiêu diệt dứt điểm các vị trí còn lại. Lực lượng của Pháp lúc này đã trở nên tuyệt vọng, suy kiệt, không còn đủ sức để duy trì chiến đấu. Đêm ngày 3-5-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục chiếm thêm một số vị trí quan trọng, tấn công và bao vây thắt chặt, có nơi chỉ cách Sở Chỉ huy tập đoàn cứ điểm có 300 mét, Tướng De Castrie liên tiếp gọi điện xin cứu viện. Không khí Genève đang nóng dần lên và dường như cũng khét lẹt mùi khói lửa chiến trường. Tin tức từ Điện Biên Phủ dội về gây nên hai hiệu ứng trái ngược: Các nước “phe phương Đông” bước vào đàm phán với tâm trạng nhẹ nhõm, hứng khởi, còn phái đoàn Pháp trĩu nặng lo âu, phủ bóng bởi một tương lai ảm đảm.
Ngày 4-5-1954, Đoàn Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu có mặt ở Genève. Văn Trang, Phiên dịch viên cho Đoàn Việt Nam mô tả: “Phạm Văn Đồng vừa đặt chân tới Genève, vấn đề Đông Dương tại Hội nghị nhộn nhịp hẳn lên”[35]. Qian Jiang cho biết một thông tin tương tự: “Ông Phạm Văn Đồng đến Genève với nét mặt rạng rỡ. Tin chiến thắng từ mặt trận Điện Biên Phủ liên tiếp báo về làm cho ông tràn đầy hy vọng”[36].
Tình hình nguy cấp tại Điện Biên Phủ khiến Chính phủ Laniel ngày thêm khó khăn, lúng túng. Các đại biểu Quốc hội Pháp liên tiếp chỉ trích Chính phủ chưa cố gắng dồn sức cho việc tìm kiếm hòa bình. Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, 18 giờ 45 phút ngày 6-5-1954, quân đội mở cuộc tiến công vào đồi A1, đánh chiếm điểm cao cuối cùng, chuyển toàn lực sang tổng công kích. Cuối cùng, thời khắc định mệnh đã đến - 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam chiếm Sở Chỉ huy cứ điểm, Tướng Đờ Cát và toàn bộ Bộ Tham mưu bị bắt sống - cuộc chiến tranh Đông Dương rơi vào “điểm trắng” của lịch sử. Cả nước Pháp chết lặng, bàng hoàng. Wilfred Burchett bình luận: “Người đồng chí thân thiết của ông Phạm Văn Đồng là ông Võ Nguyên Giáp đã trao lại cho ông một vũ khí hiệu nghiệm nhất, mà không phải bất kỳ nhà thương lượng nào cũng dám nghĩ đến khi bắt đầu một hội nghị như vậy - Điện Biên Phủ thắng lợi hoàn toàn một ngày trước khi Hội nghị khai mạc. Nhờ thời điểm tuyệt diệu của ông Giáp, kế hoạch Đa-lét nhằm quốc tế hoá cuộc chiến tranh đã thất bại”[37]. Thực vậy, Điện Biên Phủ thất thủ đã khiến nội tình nước Pháp chia rẽ sâu sắc thêm, Pháp kiếm cách nhanh chóng rút lui khỏi Đông Dương, nhiệm vụ cấp bách nhất của phái đoàn Pháp tại Hội nghị Genève là đạt được ngừng bắn càng sớm càng tốt, hy vọng thương lượng trên thế mạnh của Pháp tan vỡ.
Điêu đứng bởi “thảm bại Điện Biên Phủ”, cố tỏ ra cứng rắn, nhưng có vẻ như Pháp đã sẵn sàng nhún nhường hơn trong vấn đề đường giới tuyến. N. Khrushchev nhớ lại: “Một điều kỳ diệu đã xảy ra. Khi các phái đoàn vừa đặt chân đến Genève, những người kháng chiến Việt Nam đã giành được thắng lợi to lớn ở Điện Biên Phủ [tháng 5-1954]. Trong phiên họp đầu tiên, Trưởng đoàn đám phán Pháp Mendès-France đưa ra đề nghị hạn chế sự hiện diện của quân đội Pháp ở phía nam vĩ tuyến 17. Thú thật, khi tin tức này từ Genève bay về, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm và cảm thấy hài lòng; chúng tôi không chờ đợi được đến thế. Đó là cái tối đa mà chúng tôi hướng tới”[38].
Sau Điện Biên Phủ, dù có những động cơ riêng, nhưng đặt trong bối cảnh cùng tồn tại hoà bình đang trở thành một xu thế lớn chi phối quan hệ quốc tế, về cơ bản các nước đều muốn nhanh chóng chấm dứt xung đột, song không thể không dền dứ, khiến các phiên đàm phám trở nên căng thẳng, gay go, quyết liệt. Trong Hội nghị, Liên Xô, Trung Quốc duy trì quan hệ phối hợp chặt chẽ và giữ vai trò chủ động. Trung Quốc hầu như đồng ý hoàn toàn với Liên Xô trong nội dung các vấn đề thương lượng, bởi: 1- Lần đầu tiên xuất hiện trong một hội nghị quốc tế lớn, đứng ngang hàng với các cường quốc khác một phần lớn là nhờ nỗ lực vận động của Moscow; 2- Thiếu kinh nghiệm đàm phán và cọ sát quốc tế; 3- Nội dung các vấn đề đàm phán được Moscow đưa ra về cơ bản là đáp ứng/phù hợp với lợi ích và tính toán chiến lược của Trung Quốc. Liên quan đến Việt Nam, cả hai nước kiên trì quan điểm chia Việt Nam thành hai miền với vĩ tuyến 16 là ranh giới, dù Liên Xô hiểu rằng, sau chiến thắng Điện Biên Phủ,“đây là vấn đề hết sức tế nhị, là vấn đề gây đau đớn cho những nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”[39]. Tránh tuyên bố trực tiếp về lập trường, quan điểm nói trên, song Liên Xô luôn tìm cách để phía Việt Nam hiểu đó là con đường duy nhất giải quyết vấn đề Đông Dương. Đưa ra sáng kiến triệu tập Hội nghị Genève, Liên Xô không chỉ đơn thuần quan tâm giải quyết vấn đề Đông Dương (nơi các lợi ích của Liên Xô vào thời điểm đó là không đáng kể), mà còn nhằm mục tiêu xa hơn - dàn xếp một số vấn đề về châu Âu, liên quan, chi phối trực tiếp đến lợi ích chiến lược của Liên Xô; trong đó, vấn đề trọng tâm là lôi kéo Pháp (quốc gia đang muốn níu kéo quyền lợi ở Đông Dương) bác bỏ EDC[40], giữ nguyên hiện trạng châu Âu[41]. Ngoài ra, Liên Xô còn có mục tiêu không để Hội nghị thất bại, vì Mỹ có thể lợi dụng điều đó để mở rộng chiến tranh. Cuộc chiến Đông Dương cần phải được giải quyết và giải quyết bằng thương lượng, đi đến đình chiến; có như vậy, chiến lược ổn định vùng Viễn Đông của Liên Xô mới được đảm bảo, Liên Xô mới có điều kiện dồn lực cho phát triển kinh tế, rảnh tay tập trung cho khu vực Đông Âu - nơi sống còn của chế độ Xô-viết.
Bước ra khỏi chiến tranh Triều Tiên, phải đối mặt với hàng loạt khó khăn[42]; đồng thời, lại phải viện trợ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chống Pháp[43] nhằm bảo đảm an ninh phía Nam, Trung Quốcyêu cầu cấp bách chấm dứt chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Đông Dương, phục vụ mục tiêu chiến lược: Nhanh chóng ổn định, phát triển, từng bước khẳng định vị trí nước lớn ở khu vực cũng như trên thế giới. Chịu sự phong tỏa toàn diện của các nước phương Tây. Vì thế, ngăn trở việc thành lập các liên minh chính trị - quân sự của các nước không cùng chiến tuyến song song với mở rộng khu vực đệm trở thành một yêu cầu quan trọng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn quan tâm đến các vấn đề an ninh, hòa bình tại Viễn Đông, châu Á, thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế, giao thương mậu dịch với phương Tây, từng bước phá vỡ cấm vận, phong tỏa của Mỹ một cách hiệu quả[44].
Nhận thức Mỹ là đối thủ nguy hiểm, đe dọa trực tiếp tới an ninh thế giới, “tham gia đàm phán, Trung Quốc cố gắng để người Pháp vẫn có thể giữ một vị trí nào đó ở Đông Dương, không để Mỹ thế chân Pháp”[45]. Ưu tiên hàng đầu của Trung Quốc là “ngăn chặn Mỹ đưa lực lượng quân sự vào Việt Nam, áp sát biên giới Trung Quốc”[46]. Trong suốt chiều dài Hội nghị, với vị trí là một nước viện trợ quân sự chủ yếu và nắm con đường vận chuyển duy nhất chi viện cho Việt Nam, trong điều kiện Pháp không muốn nói chuyện với Việt Nam ở thế yếu, Trung Quốc lãnh vai trò “cầu nối”, đứng ra thương thuyết, đưa các sáng kiến trung hòa, hòa giải, tháo gỡ và phá vỡ bế tắc. Để Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận phương án đàm phán, Chu Ân Lai ngỏ ý với lãnh đạo Việt Nam: “Nếu cuộc chiến tranh Đông Dương kéo dài, Mỹ nhảy vào Đông Dương, Việt Nam không thể dựa vào sự giúp đỡ của Trung Quốc để tiến hành chiến tranh”[47]. Đặc biệt, nắm chắc nguyên tắc “lấy đánh thúc hòa”, Chu Ân Lai khéo léo điều phối hoạt động quân sự trên chiến trường Việt Nam phù hợp với nhịp độ, mục tiêu đàm phán. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trung Quốc chỉ đạo Việt Nam không đánh lớn, sợ rằng “đẩy mạnh các hoạt động quân sự sẽ phá hủy cơ hội ký kết Hiệp định đình chiến, ảnh hưởng đến hình ảnh mới mẻ của Trung Quốc – hình ảnh sứ giả hòa bình châu Á”[48]. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Tôi nêu ý kiến trong Quân ủy dùng ngay khoảng một trăm xe đưa một bộ phận pháo binh 351 và một đơn vị chủ lực tránh về Tam Nông, Phú Thọ, phía tả ngạn sông Đà, uy hiếp phía tây bắc Hà Nội. Đồng chí Vi Quốc Thanh khuyên ta tránh sử dụng lực lượng lớn đề phòng vấp váp, để giữ trọn vẹn chiến thắng đã giành được”[49]. Khoảng giữa tháng 7-1954, Việt Nam “nhận được điện của cả đồng chí Môlôtốp và đồng chí Chu Ân Lai, nói đang có triển vọng sớm đạt được một hiệp định hòa bình, không nên đẩy mạnh nhịp độ hoạt động quân sự ở cả hai miền Nam, Bắc Đông Dương”[50] .
Cũng cần nói thêm rằng, dù cũng theo đuổi cùng lúc nhiều mục đích, song Moscow ôn hòa và thận trọng hơn so với Bắc Kinh. Đến bàn đàm phán với tinh thần “trong rất nhiều vấn đề quốc tế to lớn, đầu tiên là vấn đề châu Á, nếu không có sự tham gia của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đều không giải quyết được”[51], Chu Ân Lai hành động tự tin và độc lập, từng bước ngồi vào vị trí “người lái” dẫn dắt Hội nghị – điều đó khiến Liên Xô không khỏi băn khoăn, gợn lên lo lắng về sự trỗi dậy của Trung Quốc trong một tương lai không xa và khả năng xuất hiện một cơ cấu quyền lực mới ở châu Á.
Diễn biến các phiên đàm phán cho thấy, dường như mọi vấn đề về Đông Dương đã được các nước lớn sắp đặt và quyết định, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không còn sự lựa chọn nào khác. Đến Hội nghị với những yêu cầu phù hợp với tương quan lực lượng trên chiến trường (Pháp phải thỏa thuận vô điều kiện về việc rút quân theo lịch trình ấn định, Việt Nam phải được thống nhất), song trong tiến trình Hội nghị, dưới áp lực của Liên Xô, Trung Quốc, dù cố giữ lập trường cứng rắn, nhưng cuối cùng, các yêu cầu đàm phán buộc phải hạ thấp dần. Mặc dù Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mong muốn độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhưng phân tích tình hình, Việt Nam hiểu rằng Liên Xô, Trung Quốc không muốn giúp đưa cuộc kháng chiến lên cao hơn nữa. Vả lại, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, “tương quan lực lượng thay đổi tuy có lợi cho Việt Nam, song chưa căn bản, cần một thời gian để quân đội, đất nước củng cố, xốc lại lực lượng”[52]. Trong điều kiện thiếu sự giúp đỡ của các nước đồng minh, nếu Mỹ trực tiếp tham chiến, cuộc chiến đấu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ hết sức bất lợi.
Anh không có nhiều quyền lợi tại Hội nghị, trong khi hết sức lo ngại xung đột Đông Dương có thể làm bùng phát một cuộc chiến tranh trên quy mô toàn cầu, nên muốn nhanh chóng đi tới thỏa thuận hòa bình, kết thúc cuộc xung đột. Tại Genève, Anh tích cực thực hiện vai trò trung gian hòa giải, hầu như đồng ý hoàn toàn với các ý tưởng Pháp đưa ra. Anh phối hợp khá nhịp nhàng với Pháp, Liên Xô, Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề phức tạp vào các thời điểm gay cấn của Hội nghị. Kết quả là sau Hội nghị, Anh bảo lưu quyền tham gia cùng với Mỹ trong một thỏa thuận về bảo vệ an ninh khu vực, cải thiện một bước quan hệ với Trung Quốc, kiềm chế để Trung Quốc không thúc đẩy mạnh chiến tranh du kích ở Malaysia. Thành công nổi trội hơn cả của Anh ở Genève là ở chỗ khéo léo sử dụng ngoại giao để giải quyết các vấn đề quốc tế, không bảo thủ bảo lưu mô hình đối đầu quân sự.
Ngay từ đầu, Mỹ đã xác định đến Hội nghị với tư cách quốc gia thân hữu của các nước tư bản và chủ yếu với vai trò quan sát để định liệu. Mặc dù không mấy tin tưởng ở Pháp, cho rằng Pháp sẵn sàng “bán đứng Đông Dương”, song Mỹ không thể bỏ mặc Pháp lâm vào thế yếu. Quan điểm của Mỹ là Pháp phải tiến hành đàm phán trên thế mạnh, không vội chấp nhận ngừng bắn. Mỹ phản đối phương án phân vùng và từ giữa tháng 6-1954, tích cực vận động cho một Hiệp ước phòng thủ Đông Nam Á. Chỉ đến cuối tháng 6-1954, Mỹ mới đồng ý với giải pháp chia cắt Việt Nam - đây là lần đầu tiên kể từ cuối năm 1953, Mỹ và Pháp có chung quan điểm về các chính sách đối với Đông Dương. Nhìn chung, lập trường tham gia Hội nghị của Mỹ là bảo đảm ảnh hưởng đối với các quyết định, song không ràng buộc, “là một quốc gia quan tâm, nhưng không phải là một bên tham chiến, cũng không phải là người tham gia chính trong cuộc đàm phán"[53]. Đó là cách Mỹ né tránh để không phải chịu trách nhiệm và ràng buộc bởi kết quả của Hội nghị, chuẩn bị trước cho khả năng can thiệp vào Đông Dương khi cần thiết, nhằm ngăn chặn khối cộng sản[54]. Theo logic đó, Mỹ từ chối không tham gia vào Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị.
Tham gia Hội nghị, Quốc gia Việt Nam chỉ tồn tại một cách hình thức bên cạnh phái đoàn Pháp. Trong các buổi họp hẹp giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đại biểu của Quốc gia Việt Nam không được mời tham dự dù với tư cách quan sát viên. Trong phiên họp toàn thể, chỉ có các trưởng phái đoàn Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra quan điểm và thảo luận, sau đó Pháp thông báo mọi quyết định cho phái đoàn Quốc gia Việt Nam.  Ngày 17-7-1954, phái đoàn Quốc gia Việt Nam gửi Kháng nghị đến Pháp và Mỹ, phản đối Pháp đã không thông báo về những đề xuất được mang ra thảo luận – những đề xuất, như bản Kháng nghị khẳng định: “Không hề đếm xỉa đến ý chí đoàn kết dân tộc muôn người như một của nhân dân Việt Nam”[55]. Phái đoàn Quốc gia Việt Nam yêu cầu: “Ngừng bắn phải đi kèm với giải trừ quân bị mọi lực lượng tham chiến tại Việt Nam; đặt Việt Nam dưới sự kiểm soát của Liên Hợp Quốc trong thời gian an ninh, trật tự, hòa bình từng bước được tái lập và hoàn tất (…). Cuối cùng, để nhân dân Việt Nam tự quyết định vận mệnh của mình thông qua bầu cử tự do”[56]. Bản Kháng nghị lưu ý: “Đặt một Việt Nam thống nhất dưới quyền kiểm soát của Liên Hợp Quốc thích hợp hơn là duy trì quyền lực ở một đất nước bị chia cắt và bị đẩy vào vòng nô lệ”[57].
4- Điện Biên Phủ - Geneve: Chiến thắng và không chiến thắng?
Sau nhiều tranh cãi, thảo luận, thoả thuận và thỏa hiệp, cuối cùng, ngày 20-7-1954, các bên tham gia Hội nghị Genève cũng đạt được những nhất trí mang tính then chốt, thể hiện sự hòa hoãn và tư tưởng “chung sống hoà bình” giữa các nước lớn trong thương lượng.
Hiệp định được thông qua ở Genève nghiêng về kế hoạch của Pháp hơn là của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuy thắng lớn trên chiến trường, song do thiếu kinh nghiệm đàm phán, do thực lực chưa mạnh, nên “chỉ có được một nửa nước Việt Nam trên bản đồ thế giới”[58] với ranh giới là vĩ tuyến 17 (thay cho vĩ tuyến 13 dự liệu ban đầu) và thời hạn hai năm tổng tuyển cử (thay vì 6 tháng như đề nghị), rút hết quân đội khỏi Lào và Campuchia. Campuchia chịu nhiều thiệt thòi, không có căn cứ tập kết, phải phục viên tại chỗ - đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến sau này khiến lãnh đạo Khmer đỏ cho rằng Việt Nam phản bội “những người anh em Campuchia” lần thứ nhất và bồi đắp thêm tư tưởng chống Việt Nam.
Việc Trung Quốc và Liên Xô sắp đặt sẵn với Pháp, Anh một giải pháp về Việt Nam đã làm mất hiệu lực của chiến thắng Điện Biên Phủ. Bảo toàn lợi ích riêng, “cả Liên Xô, Trung Quốc đã tiết chế bớt những yêu cầu của Việt Minh và đóng vai trò quan trọng trong việc dàn xếp thỏa hiệp[59]. Về ranh giới phân vùng, khi Chu Ân Lai nhắc đến giới tuyến 17, cả Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh đều cảm thấy ngỡ ngàng. Biết rằng “với so sánh lực lượng trên thực tế chiến trường hiện nay, ta đề ra vĩ tuyến 13 là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với ta là không thể chấp nhận, chí ít cũng phải dành được vĩ tuyến 16”[60], song Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn đành phải “nuốt viên thuốc đắng” vĩ tuyến 17. Hãy xem Jean Lacouture mô tả nỗi “ấm ức” của Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Chung quanh một chiếc bàn lớn, ghế xô đẩy ngổn ngang, người ta thấy Eden và P.M.F (Pierre Mendès France- TG), Molotov và Chu Ân Lai đang bao quanh Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng mồ hôi nhễ nhại, mặt hốc hác đầy vẻ đau đớn nhìn vào bản đồ Đông Dương trước mặt: Lãnh thổ của Việt Nam cộng sản bị đẩy lùi dần từng cây số một về phía Bắc”[61]. Sau này, Phạm Văn Đồng cay đắng thốt lên: “Chúng tôi có thể giành được nhiều hơn, nhiều hơn nữa. Chúng tôi đã thoả thuận trước với Trung Quốc về mọi điều. Nhưng Chu Ân Lai đã có cuộc hội đàm bí mật với Mandès France và tất cả đều đã thay đổi”[62]. Ngay từ những ngày ấy, những người cộng sản Việt Nam đã hoài nghi về khả năng một nền hòa bình đến sớm. Võ Nguyên Giáp đã không vô lý, khi lo lắng: “Pháp còn gần năm mươi vạn quân, lại thêm Mỹ giúp thì rất ít có khả năng hòa bình thống nhất Việt Nam”[63].
Rời khỏi Genève, Liên Xô, Trung Quốc đạt được hầu hết các mục đích. Mặc dù kết quả Hội nghị Genève chủ yếu phục vụ quyền lợi của các nước lớn và mang tính áp đặt thiệt thòi cho các nước nhỏ Đông Dương, tuy nhiên, từ góc độ tiếp cận của mình, Liên Xô, Trung Quốc đều không cho đó là một kết cục “gây tử vong”. Nghiên cứu các văn bản, giấy tờ, biên bản hội đàm, trao đổi giữa Liên Xô với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, có thể thấy, nếu như việc chia cắt lãnh thổ làm những người cộng sản Việt Nam đau đớn, thì Liên Xô lại không cho đó là một hiện tượng hiếm thấy (trên thế giới đã có trường hợp Đức và Triều Tiên). Tự biện minh, thì Liên Xô coi đây một phương thức giải quyết các xung đột quốc tế - một phương thức cho phép đảm bảo hòa bình trong một “giai đoạn quá độ” nhất định – một bước lùi có thể chấp nhận được, bởi nó không loại trừ việc thống nhất quốc gia vào thời điểm thích hợp sau này.
 Trung Quốc quan niệm “những nhượng bộ tại Genève tạm thời và chiến thuật, bởi vì vào thời điểm đó, sức mạnh mọi mặt của Trung Quốc cần tiếp tục được củng cố, còn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa đủ sức để theo đuổi một thắng lợi hoàn toàn”[65]. K.Lawson phân tích lập trường của Trung Quốc: “Trung Quốc rất hài lòng với Hiệp định này. Trên thực tế, 10 năm sau đó, Hiệp định Genève đã chi phối mạnh mẽ cách suy nghĩ của Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề liên quan đến Việt Nam”[66]. Thật vậy, đến Genève với một đoàn ngoại giao hùng hậu, gồm hơn 200 người[67], tập trung những nhân tài ưu tú nhất, “đứng trên vũ đài quốc tế hát kịch văn”, diễn một vở diễn lớn, Chu Ân Lai “rời Genève gần như với tất cả mọi thứ đã được tiên liệu và dự đoán trước”[68]. Từ những gì Trung Quốc đạt được ở Genève, có thể kết luận: Cuộc chiến tranh Việt Nam là một đầu tư ngắn hạn, nhưng hiệu quả của Trung Quốc[69].
Một tháng sau ngày kết thúc Hội nghị, có tới 2/3 số người Pháp được hỏi ý kiến trong cuộc điều tra xã hội học cho rằng các điều khoản đạt được là đáng mừng[70]. Đa phần chính giới Pháp không công kích kết quả Hội nghị, vì tuy Pháp bị mất một nửa nước Việt Nam, song củng cố ảnh hưởng tại Lào, Campuchia; đồng thời, rút ra khỏi “cuộc chiến tranh bẩn thỉu”.
Về phía Quốc gia Việt Nam, tại phiên họp toàn thể cuối cùng, Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ “yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ quốc gia Việt Nam dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện thống nhất, độc lập và tự do cho xứ sở”[71]. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ tuyên bố: “Chính phủ Quốc gia Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt”[72]. Trần Văn Đỗ yêu cầu chèn thêm vào bản Tuyên bố nội dung: "Hội nghị ghi nhận Tuyên bố của Chính phủ của Nhà nước Việt Nam về cam kết thực hiện và hỗ trợ mọi nỗ lực thiết lập một nền hòa bình thực sự và lâu dài tại Việt Nam; không sử dụng vũ lực chống lại các thủ tục để lệnh ngừng bắn có hiệu lực, trong khi Nhà nước Việt Nam vẫn bảo lưu sự phản đối được nêu lên ở Tuyên bố cuối cùng”[73]. Yêu cầu đã bị bác bỏ thẳng thừng. Thất vọng vì “người Pháp đã trơ trẽn và bất chấp luật lệ bán rẻ lợi ích của Quốc gia Việt Nam”[74], trả lời phỏng vấn báo chí, Trần Văn Đỗ tiết lộ: “Phái đoàn quốc gia Việt Nam đã không được biết về thoả thuận đình chiến. Từ khi đến Genève, phái đoàn không hề được hỏi ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử… Những vấn đề này đều được thảo luận tại những phiên họp hẹp; do vậy, phái đoàn Quốc gia Việt Nam không thể bày tỏ quan điểm”[75]. Tức tưởi, chán nản, bất lực, từ Genève, Trần Văn Đỗ gửi điện xin từ chức.
 Trước kết cục cuối cùng của Hội nghị Genève, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Quốc gia Việt Nam Phan Huy Quát tuyên bố: “Chia cắt Việt Nam sẽ dẫn tới nguy cơ làm dấy lên cuộc chiến tranh giữa miền Bắc và miền Nam (…) Đình chiến và phân vùng sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh nguy hiểm hơn”[76]. Với quan điểm tương tự, Tướng Nguyễn Văn Hinh phát biểu: “Đình chiến và chia cắt lãnh thổ Việt Nam là một biện pháp tạm thời để ngăn chặn sự đổ máu, nhưng không thể chấm dứt chiến tranh. Và có thể, người Việt Nam sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến tranh như ở Hàn Quốc, nơi quân đội của cả hai bên luôn đặt ngón tay lên cò súng”[77].
Căn cứ trên điều khoản “không bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này” của Hiệp ước Traité D’indépendance Du VietNam (4-6-1954), Quốc gia Việt Nam tuyên bố không bị ràng buộc bởi Hiệp định Genève. Tuy nhiên, theo phân tích trong Official record của U.S. Senate Subcommittee, thì có ít nhất hai lý do khẳng định Quốc gia Việt Nam vẫn bị ràng buộc bởi Hiệp định Genève: 1- Chính phủ này chỉ sở hữu một vài thuộc tính của một chủ quyền đầy đủ; 2- Phụ thuộc vào Pháp về quốc phòng[78].
Đặt mục tiêu chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, Hiệp định Genève đã không bịt được kẽ hở tạo khả năng cho Mỹ vào Đông Dương; những “lỗ hổng” trong Hiệp định đặt Đông Dương trên bờ vực của một cuộc chiến tranh mới. Từ tiến trình và kết quả Hội nghị, nổi bật lên hai vấn đề lớn:
Thứ nhất, trên bàn cờ chính trị thế giới, chiến lược, mục tiêu đối ngoại của các nước lớn luôn có xuất phát điểm và được xây dựng trên những lợi ích có ý nghĩa toàn cầu; hợp tác hay xung đột cũng từ đó mà xuất hiện, tồn tại, triệt tiêu hoặc phát triển. Trong quá trình vận động, các nước nhỏ, yếu dễ bị biến thành “vật tế thần”, quyền lợi và nguyện vọng bị bỏ qua, ít được “đếm xỉa” tới. Trường hợp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Quốc gia Việt Nam là một điển hình như thế.
Thứ hai, giải pháp chia cắt Việt Nam bằng lằn ranh mang tên “vĩ tuyến 17” đã không mang đến thậm chí là “nền hòa bình mong manh”. Hai miền đất nước, hai chế độ và hơn 20 năm chiến tranh dài đằng đẵng. Lịch sử Việt Nam ở thời điểm đó và cả sau này, bị chế định bởi “giải pháp” của những “người ngoài cuộc”.
Trong chuỗi vận động: Điện Biên Phủ - Genève- kết quả và hệ quả, chúng tôi muốn rút tỉa một số vấn đề để ưu tư, suy ngẫm:
1- Bỏ qua phương án “đặt Việt Nam dưới sự kiểm soát của Liên Hợp Quốc trong thời gian an ninh, trật tự, hòa bình từng bước được tái lập và hoàn tất. Cuối cùng, để nhân dân Việt Nam tự quyết định vận mệnh của mình thông qua bầu cử tự do”, phải chăng Việt Nam đã lỡ một nhịp trên con đường hòa bình và hòa hợp?
2- Lịch sử đã vô tình và khắc nghiệt đặt dải đất hình chữ S bên cạnh một người láng giềng phương Bắc to lớn và đầy tham vọng. Áp lực “Hán hóa” – một câu chuyện  thường trực, chưa có hồi kết thúc. Ở Geneve ngày ấy, có cơ hội nào để Việt Nam  “thoát Hán, giải Trung”?
3- Chiến thắng – giống như tấm huân chương - luôn có hai mặt: Cờ hoa và xương máu. Có điều, giá trị của chiến thắng không chỉ được khẳng định hoặc phủ định đơn thuần bởi chủ kiến của “người trong cuộc”, mà quan trọng hơn, tính đích thực của nó được thẩm định và quyết định bởi quá trình lịch sử tiếp theo; trong đó, “cái hiện tại” là thước đo chính nhất. Trên góc độ ấy, ở Genève, có chiến thắng dành cho “người trong cuộc”?







[1] Chiến tranh đã tiêu tốn của nước Pháp khoảng 5000 tỉ franc cũ, chưa kể 477 tỉ tiền viện trợ của Mỹ đổ vào Đông Dương trước tháng 7-1954 (Nguồn: Bernard B Fall: Hell in a Very Small Place: The Siege of Dien Bien Phu, Da Capo Press, 2002, p.3).
[2] Bernard B Fall: Hell in a Very Small Place: The Siege of Dien Bien Phu, Ibid, p.3.
[3] Ibid, p.3.
[4] Jean Pouget: Tướng H.Navarre với trận Điện Biên Phủ, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, tr.56.
[5] Sđd, tr.61.
[6] Sđd, tr.61.
[7]  Dẫn theo Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954, Tập II, Nxb QĐND, H. 1994, tr. 353.
[8] Bernard B Fall: Hell in a Very Small Place: The Siege of Dien Bien Phu, p.37.
[9] Điện Biên Phủ nằm gần biên giới Việt Lào cách Hà Nội khoảng 350 ki-lô-mét đường chim bay, cách Luông Pha-băng (Lào) 190 ki-lô-mét. Từ Điện Biên Phủ có những trục đường chạy về phía nam xuống Trung, Hạ Lào, sang phía  tây tới Thái Lan, Miến Điện, lên phía bắc tới Trung Quốc. Bao bọc xung quanh thung lũng Điện Biên Phủ là một vùng rừng núi điệp trùng. Núi có độ cao trung bình 500 mét, có mỏm đột xuất cao tới 1.461 mét. Thung lũng Điện Biên là cánh đồng bằng phẳng, đồng ruộng khô ráo, thỉnh thoảng nổi lên những quả đồi cao hơn mặt ruộng 8 đến 20 mét, cá biệt có điểm cao tới 250 mét, trong thung lũng có sông Nậm Rốm chảy theo hướng bắc nam đổ xuống sông Nậm Hu.
[10] Điện Biên Phủ được bố trí 49 cứ điểm liên hoàn, có thể hỗ trợ nhau khi bị tiến công, có 17 tiểu đoàn bộ binh, đa số là lính Âu Phi thiện chiến, lính dù tinh nhuệ và 116 khẩu pháo, cối các loại, 10 xe tăng cùng các loại vũ khí, khí tài hiện đại khác như súng phun lửa, súng đại liên nhiều nòng, mìn đĩa, mìn napan, máy ngắm hồng ngoại…, hàng ngày được 50-60 máy bay vận tải tiếp tế từ 150 đến 200 tấn vật liệu chiến tranh và các đồ dùng quân sự.
[11] Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Nxb Quân đội nhân dân, 2000, tr.44.
[12] Khối lượng vật chất bảo đảm cho chiến dịch lên tới 20.000 tấn, trong đó có 1.200 tấn đạn, 1.783 tấn xăng dầu, 14.950 tấn gạo, 268 tấn muối, 577 tấn thịt, 1.034 tấn thực phẩm và 177 tấn vật chất khác; huy động hơn 260.000 dân công, trên 20 nghìn xe đạp thồ, 17.000 ngựa thồ, trên 11.800 thuyền bè mảng và 628 xe ô tô phục vụ vận chuyển hàng hoá, vũ khí đạn dược cho chiến dịch (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự: Lịch sử hậu cần kỹ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 296, 279).
[13]Газета Правда, 28 сентября 1953.
[14] Dương Khuê Tùng: Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, tập 2, Nxb. Nhân dân Giang Tây, 2008, bản dịch Quốc Thanh.

[15] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, Beijing: History of CPC Press, 2005, p.38.

[16] Ibid, p.26.

[17] Telegram, PRC Ambassador to the Soviet Union, 'Reporting the Preliminary Opinions of Our Side on the Geneva Conference to the Soviet Side'" March 06, 1954, History and Public Policy Program Digital Archive, PRC FMA 206-Y0054, CWIHP. 
[18] АВП РФ, ф. 06, on. 13а, п. 25, д. 7, л. 43.
[19] И. В. Гайдук: Советский Союз на Женевской конференции по Индокитаю, allconspirology.org.
[20]А.О.Чубарьян, Н.И.Егорова: Холодная война. 1945—1963 гг. Историческая ретроспектива, Сб. Ст, ОЛМА-ПРЕСС, М. 2003, C.285.
[21] Theo cuốn Zhou Enlai and the Geneva Conference, sáng sớm 20-4-1954, Chu Ân Lai cùng phái đoàn rời Bắc Kinh ghé qua Moskva. Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam cùng bay đến Moskva (p.50). Cuộc hội đàm giữa Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên, Vương Gia Tường và Hồ Chí Minh cùng với Malenkov, Khrushev, Molotov và Suslov diễn ra ngày 22-4. Tuy nhiên, cũng trong cuốn Zhou Enlai and the Geneva Conference, tác giả lại viết rằng, cuộc hội đàm này diễn ra ngày 9-4 (pp.37-38). Có lẽ Qian Jiang có sự nhầm lẫn, vì so sánh thành phần tham dự, nội dung Hội nghị và đối chiếu với tư liệu gốc (Telegram, Zhou Enlai to CCP CC Chairman Mao Zedong, CCP CC Vice Chairman Liu Shaoqi, April 23, 1954), thì cuộc họp phải diễn ra ngày 22-4-1954.
[22] Telegram, Zhou Enlai to CCP CC Chairman Mao Zedong, CCP CC Vice Chairman Liu Shaoqi, and the Central Committee of the CCP, concerning Soviet Premier Georgy M. Malenkov’s conversation with Zhou Enlai about the Vietnam Issue" April 23, 1954, History and Public Policy Program Digital Archive, PRC FMA 206-00048-08, CWIHP. 
[23] N. Khrushchev viết như sau: “Tình hình Việt Nam rất trầm trọng và bi đát, phong trào giải phóng dân tộc bên bờ vực sụp đổ và những người kháng chiến cần một hiệp định để những thành quả mà nhân dân Việt Nam đã đạt được trong cuộc kháng chiến chống xâm lược có thể được đảm bảo. Hà Nội nằm trong tay người Pháp và những người kháng chiến dù cố gắng đã không thể giành lại. Những thành phố và tỉnh thành khác cũng bị người Pháp chiếm đóng. Nếu thể hiện trên bản đồ những yêu cầu số một của chúng tôi (đình chiến với giới tuyến 16-TG), thì miền Bắc Việt Nam còn nhiều địa điểm mà các lực lượng chiếm đóng Pháp vẫn có thể ở lại kể cả trong trường hợp các đề nghị của chúng tôi [tại Hội nghị Geneve] được đáp ứng đầy đủ (Nguồn: Nikita Khrushchev: Memoirs of Nikita Khrushchev, volume 3 statesman (1953–1964), Pennsylvania State University Press, 2006, p.500).
[24] Nguyên văn: Trước một trong những phiên họp tại Hội trường Catherine iện Kremlin), Chu Ân Lai đã kéo tôi vào một góc và nói: Đồng chí Hồ nói với tôi rằng, tình hình rất vô vọng. Nếu trong thời gian tới, không đạt được lệnh ngừng bắn, họ sẽ không thể cầm cự chống lại các lực lượng Pháp. Do đó, họ đã quyết định rút lui về phía biên giới Trung Quốc và như vậy Trung Quốc có thể mang quân sang chiến đấu giống như trước đây ở Bắc Triều Tiên, giúp nhân dân Việt Nam đánh đuổi Pháp khỏi Việt Nam”. Chu Ân Lai nói thêm: “Họ [Trung Quốc] không thể thực hiện yêu cầu đó, vì ở Triều Tiên họ đã hy sinh quá nhiều, đã trả giá đắt vì chiến tranh. Họ không đủ lực để vướng vào một cuộc chiến tranh mới, vì thế, không thể đáp ứng yêu cầu của Hồ” (Nguồn: Nikita Khrushchev: Memoirs of Nikita Khrushchev, p.500).
[25] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.23.
[26] Jean Pouget: Tướng H.Navarre với trận Điện Biên Phủ, Sđd, tr. 314.       
[27] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.75
[28] Theo tính toán của Pháp, viện trợ Mỹ đã chiếm gần 80% chiến phí của Pháp, tổng cộng khoảng 1.700 triệu đôla. Tất nhiên, trong tổng số 1.700 triệu đôla viện trợ Mỹ đó, tuyệt đại bộ phận là vũ khí và dụng cụ chiến tranh. (Nếu kể từng loại cụ thể, theo “Tài liệu mật của Lầu Năm Góc” thì tính đến ngày 21-1-1954, Mỹ đã viện trợ cho Pháp 1.400 xe tăng và xe bọc thép, 619 máy bay, 390 tàu đổ bộ, 16.000 ôtô, 175.000 súng trường và súng máy, 2.555 triệu viên đạn, trong đó có 15 triệu viên đại bác.
[29] U.S. Policy toward Southeast Asia (NSC 51), dated 1 July 1949, Harry S. Truman Library, Independence, Missouri. 137.
[30] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.57.
[31]  The Pentagon Papers, Gravel Edition Volume 1, Chapter 5, "Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954-1960" (Boston: Beacon Press, 1971). Hiệp ước Traité D’indépendance Du VietNam có nội dung như sau: 1- Nước Pháp thừa nhận nước Việt Nam như là một quốc gia hoàn toàn độc lập có đủ mọi thẩm quyền công nhận bởi công pháp quốc tế; 2- Nước Việt Nam thay thế nước Pháp trong mọi quyền hành trong các hiệp ước, giao ước mà nước Pháp đã nhân danh nước Việt Nam mà ký kết trước đó về những khoản liên quan đến Việt Nam, cũng như không bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này; 3- Nước Pháp cam kết trả lại mọi công vụ mà Pháp đang chuyên trách tại Việt Nam; 4- Hiệp ước này có hiệu lực kể từ ngày ký, hủy bỏ mọi văn kiện và quy định trước trái ngược với hiệp ước này.
[32] Hiệp ước Traité d’association Franco Vietnamienne  thừa nhận Việt Nam thuộc Liên hiệp Pháp; Pháp và Việt Nam đều bình đẳng, hai bên hợp tác tại Hội đồng tối cao Liên hiệp Pháp; mọi xung đột, nếu có sẽ được giải quyết tại Hội đồng trọng tài do hai bên cử ra.
[33] Liên Xô tỏ ý không phán đối nếu Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào và Campuchia cử đại diện tham gia.
[34] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.105.
[35] Dẫn theo Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.110
[36] Ibid, p.110.
[37] Burchett, George and Shimmin, Nick: Memoires of A Rebel Journalist: The Autobiography of  Wilfred Burchett, University of New South Wales Press, Sydney, New South Wales, 2005, p.190.
[38] Nikita Khrushchev: Memoirs of Nikita Khrushchev, volume 3 statesman (1953–1964), Pennsylvania State University Press, 2006, p.501. Khrushchev viết tiếp: Chúng tôi đã chỉ thị cho phái đoàn của mình tại Genève đưa yêu cầu về đường giới tuyến dịch chuyển xuống phía Nam, đến vĩ tuyến 15; tuy nhiên, chúng tôi cũng khuyến cáo rằng đó là vị trí [vĩ tuyến 15 -TG] đặt ra để thương lượng; và như thế, đề nghị của Mendès-France cần được chấp thuận và bằng cách đó, những thành quả đạt được của những người cộng sản Việt Nam được bảo đảm. Hiệp định đã được ký kết vì lý do đó” (p.501).
[39]А.О.Чубарьян, Н.И.Егорова: Холодная война. 1945—1963 гг. Историческая ретроспектива, c.281.
[40] Mỹ, Anh và Pháp chủ trương thành lập Khối phòng thủ châu Âu (EDC) bao vây Liên Xô, song Pháp không mặn mà với EDC và cuối cùng, tháng 8-1954, Quốc hội Pháp đã bác đề nghị này.
[41]А.О.Чубарьян, Н.И.Егорова: Холодная война. 1945—1963 гг. Историческая ретроспектива, c.278.
[42] Chiến tranh Triều Tiên đã cướp đi sinh mạng của gần 1.000.000 Chí nguyện quân, để lại thương tật cả đời cho hàng triệu người. Trong ba năm chiến tranh (1950-1953), Trung Quốc tiêu tốn mất khoảng 10 tỷ USD (Nguồn: Dương Khuê Tùng: Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, tập 2). Trung Quốc nợ Liên Xô 650 triệu USD, buộc phải hoãn lại kế hoạch năm năm lần thứ nhất (Nguồn: Zhang Xiaoming: China, the Soviet Union, and the Korean War: From an Abortive Air War Plan to a Wartime Relationship,  Journal of Conflict Studies, vol 22, N01, 2002, p.81).
[43] Theo thống kê của phía Trung Quốc, trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Pháp, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam 155.000 khẩu súng các loại, 57.850 viên đạn, 3.692 khẩu pháo, hơn 1.080.000 quả đạn pháo, hơn 840.000 quả lựu đạn, 1.231 ô tô, hơn 1.400.000 bộ quân phục, 14.000 tấn lương thực, thực phẩm phụ, hơn 26.000 tấn dầu và một lượng lớn thuốc men, vật tư quân dụng khác (Nguồn: Quách Minh (Chủ biên), Diễn biến quan hệ Trung - Việt trong 40 năm qua, Nxb. Nhân dân Quảng Tây, tủ sách Đông Nam Á, 1992, bản dịch, lưu tại Thư viện Quân đội, Hà Nội).
[44] Preliminary Opinions on the Assessment of and Preparation for the Geneva Conference,' Prepared by the PRC Ministry of Foreign Affairs (drafted by PRC Premier and Foreign Minister Zhou Enlai) [Excerpt]" March 02, 1954, History and Public Policy Program Digital Archive, PRC FMA 206-Y0054, CWIHP.
[45] Qiang Zhai: China and Vietnam Wars, 1950-1975, Chapel Hill, Univ. of North Carolina Press, 2000, p.50.
[46]Allen Kempton: The People’s Republic of China and Vietnam: A Complex RelationshipEssay Prize in History, 2012, p.5.
[47]А.О.Чубарьян, Н.И.Егорова: Холодная война. 1945—1963 гг. Историческая ретроспектива, c.284.
[48] The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3, "The Geneva Conference, May-July, 1954", (Boston: Beacon Press, 1971).
[49] Võ nguyên Giáp, Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử,  Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 420-421.
[50]Võ nguyên Giáp, Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử,  Sđd, tr,428
[51] Tạ Ích Hiển (chủ  biên): Lịch sử ngoại giao Trung Quốc đương đại (1949-2001), Bản dịch của Tổng cục 2, lưu tại Tổng cục 2, tr.55.
[52]АВП РФ, ф. 0445, оп. 1, п. 1, д. 1, л. 3-4.
[53] The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Document 47, Memorandum from Secretary of State Dulles on Instructions to the American Delegation at Geneva, 12 May 1954, p 507-08.
[54] The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3.
[55] The Pentagon Papers - U.S.-Vietnam Relations, 1945-1967, A Study Prepared by the Department of Defense.
[56]Ibid.
[57]Ibid.
[58]Christopher E. Goscha: Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Integration of Vietnam into the Internationalist Communist Movement (1945–1950), Journal of Vietnamese Studies, Vol I, N0 1-2, (February, August), 2006.

[59] George C. Herring: America's Longest War: The United States and Vietnam, 1950-1975 with Poster (4th Edition), McGraw-Hill Higher Education, November 2001, p.28.

[60] 17Võ nguyên Giáp, Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử, Sđd,428.
[61] Jean Lacouture, Philippe Devillers: La Fin d'une guerre: Indochine 1954, Éditions du Seuil, 1960, p.311.
[62] Wilfred Burchett, The China Cambodia Viet Nam Triangle, London: Zed Press, 1981.
[63] Võ nguyên Giáp, Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử, Sđd, tr.429.
[64] Võ nguyên Giáp, Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử , Sđ d, tr.429
[65]Yang Kuisong: Changes in Mao Zedong's Attitude toward the Indochina War, 1949-1973, Cold War International History Project, Wilson Center, p.4.
[66] Engene K. Lawson, The Sino - Vietnamese conflict, NewYork: Praeger Publishers 1984, p. 39 - 40
[67] Đoàn đại biểu được chia làm sáu tổ: tổ về vấn đề Triều Tiên, tổ về vấn đề Việt Nam, vấn đề tổng hợp, tổ tin tức tuyên truyền, tổ thư ký và tổ giao tiếp hành chính, trong đó có thêm năm phiên dịch tiếng Nga, bốn phiên dịch tiếng Anh, bốn phiên dịch tiếng Pháp, ngoài ra còn có đầu bếp, lái xe, tổng cộng là 185 người, cộng thêm 29 nhà báo.
[68] Chen Jian: China and the First Indo-China War, 1950-54, The China Quarterly, No. 133 (Mar, 1993), p.110.
[69] Hội nghị Genève chứng tỏ rằng, trên phương diện giải quyết những vấn đề quốc tế cấp bách, sự tham gia của Trung Quốc có vai trò quan trọng, Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng, nâng cao địa vị quốc tế. Giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương đã làm rối loạn việc triển khai chiến lược của Mỹ nhằm uy hiếp Trung Quốc từ ba chiến tuyến Nam Triều Tiên, Đài Loan, Đông Dương, đảm bảo an ninh cho Trung Quốc ở biên thùy phía Nam, Trung Quốc có thể tập trung sức người, sức của vào phát triển kinh tế. Hai năm sau Hội nghị, khối lượng buôn bán giữa Trung Quốc với các nước châu Âu tăng rõ rệt, tăng gấp đôi (năm 1954 là 173,4 triệu USD, thì đến năm 1955 đã đạt 226,2 triệu và đến năm 1956 là 326 triệu).
[70]Alain Rusci: Dien Bien Phu, la fin dune illusion, L.Harmattan, 1986. 
[71] The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3.
[72] Ibid.
[73]The Pentagon Papers - U.S.-Vietnam Relations, 1945-1967.
[74] The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3.
[75] Ibid.
[76] The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 5, Ibid.
[77] Ibid.
[78] The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 5.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!