Hiển thị các bài đăng có nhãn Đối ngoại. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đối ngoại. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 13 tháng 11, 2018

QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ NƯỚC LỚN TRƯỚC VIỆC VIỆT NAM ĐÀM PHÁN VÀ KÝ KẾT HIỆP ĐỊNH PARIS (1973)


Nguyễn Thị Mai Hoa
ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN
Trong 21 năm chiến tranh (1954-1975), đương đầu với một đối phương có tiềm lực, sức mạnh kinh tế, quân sự vượt trội, Đảng, Nhà nước Việt Nam xác định sự ủng hộ của các nước XHCN là vô cùng quan trọng. Trong từng bước phát triển của cuộc kháng chiến, đặc biệt là trong quá trình đàm phán và ký kết Hiệp định Paris, chủ động, độc lập hoạch định chủ trương, đường lối, song Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn chú ý tham khảo ý kiến và tranh thủ sự đồng tình của các nước trong phe XHCN, nhất là hai nước lớn Liên Xô, Trung Quốc [ĐỌC TIẾP]...

Thứ Bảy, 10 tháng 3, 2018

GIỚI THIỆU SÁCH: “40 DIỄN BIẾN QUAN HỆ TRUNG –VIỆT”

Đây là cuốn sách do Quách Minh- một học giả Trung Quốc chủ biên. Cuốn sách mô tả mối quan hệ Trung- Việt từ năm 1950 đến năm 1990 với góc nhìn từ phía các nhà nghiên cứu Trung Quốc. Cuốn sách đề cập đến các sự kiện nổi bật trong quan hệ hai nước trên một chặng đường khá dài- 40 năm, với rất nhiều thăng trầm, từ quan hệ đồng chí- anh em đến rạn vỡ, khủng hoảng và chiến tranh. Cuốn sách được bố cục thành 6 chương với rất nhiều mục, phần khác nhau....[ĐỌC TIẾP...]

Thứ Tư, 16 tháng 3, 2016

VỀ HAI CHÍNH SÁCH TRONG CHIẾN LƯỢC ĐỘC CHIẾM BIỂN ĐÔNG CỦA TRUNG QUỐC (Qua sự kiện hải chiến Trường Sa 1988)

Nguyễn Thị Mai Hoa
Tranh chấp, xung đột ở biển Đông hiện đang diễn ra gay gắt xung quanh quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) –bao gồm hơn 230 đảo san hô, cồn cát, rạn đá san hô và bãi đá ngầm… Có 6 quốc gia và vùng lãnh thổ có tranh chấp (Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Đài Loan và Brunei) và tuyên bố quyền sở hữu đối với những diện tích khác nhau thuộc quần đảo. Ba trong số các bên tranh chấp (Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam) yêu sách toàn bộ quần đảo; hai trong số đó (Malaysia và Philippines) chỉ yêu sách một bộ phận của quần đảo (Philippines tuyên bố chủ quyền nhóm đảo Kalayaan, Malaysia đòi hỏi chủ quyền một số thực thể ở phía Nam của quần đảo); Brunei tranh chấp một phần nhỏ của lãnh hải (Brunei chưa đưa ra đòi hỏi về một thực thể địa lý cụ thể, mà chỉ đưa ra yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong đó tọa lạc một vài rạn san hô/bãi đá ngầm)....[ĐỌC TIẾP]

Thứ Ba, 17 tháng 2, 2015

YẾU TỐ NGOẠI LAI TRONG CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT – TRUNG 1979

Nguyễn Thị Mai Hoa
Chiến tranh Việt –Trung (1979) là một cuộc chiến tranh hạn chế về không gian và thời gian giữa hai nước XHCN mà ẩn đằng sau nó là hai trục XHCN (Bắc Kinh – Phnompenh; Hà Nội – Moscow). Sở dĩ liên quan đến cuộc chiến có “hai trục XHCN” là bởi hai nước trực tiếp tham chiến đều phải dàn lực ra hai hướng (dù mức độ có khác nhau), tính đến mối đe dọa từ hai phía đều là những lực lượng trong cùng phe XHCN: Trung Quốc tấn công Việt Nam nhưng luôn nghe ngóng phản ứng của Liên Xô; Việt Nam chống trả Trung Quốc song vẫn phải tiếp tục đối phó với Khơme đỏ ở phía Tây Nam. Nói cách khác, liên quan đến cuộc chiến tranh Trung –Việt (1979) xuất hiện “một tam giác cấp vùng bao gồm Campuchia, Việt Nam và Trung Quốc và một tam giác liên lục địa bao gồm Việt Nam, Trung Quốc và Liên bang Xô viết”[1]. Rút từ hai loại hình tam giác đó và xung quanh chúng tồn tại, xuất hiện, dao động hàng loạt các yếu tố ngoại lai khác nhau với sự ảnh hưởng, tác động trên nhiều tầm mức và tầng nấc đa dạng, có ý nghĩa trực tiếp và gián tiếp.

Thứ Năm, 22 tháng 1, 2015

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA HÀ NỘI TRONG CHẶNG ĐƯỜNG ĐẦU ĐỔI MỚI (1986-1996)

Nguyễn Thị Mai Hoa
ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN
Trong chiều dài hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước, Hà Nội-Thăng Long văn hiến không chỉ luôn vững vàng mà còn đi đầu trong mọi đổi thay của đất nước, giữ sắc thái rất riêng của mình. Là trái tim của cả nước, với vai trò “đầu tàu”, Hà Nội hội tụ đầy đủ những ưu thế, điều kiện thuận lợi để xây dựng cũng như phát triển quan hệ đối ngoại, thực hiện giao lưu quốc tế với các Thủ đô, các trung tâm chính trị, kinh tế- văn hóa thế giới. Với thế mạnh nói trên, khi Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm phá vỡ thế bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, Hà Nội đã nhanh chóng nắm bắt vận hội, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, coi đó là đòn bẩy quan trọng đối với sự phát triển mọi mặt của thành phố, nhất là kinh tế.

Thứ Ba, 14 tháng 10, 2014

GIÚP ĐỠ QUÂN SỰ CỦA LIÊN XÔ CHO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM (1954-1975)

Nguyễn Thị Mai Hoa
ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN
Được thành lập vào ngày 22-12-1944 với lực lượng nòng cốt chỉ có 34 chiến sĩ, Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) là quân đội từ nhân dân mà, vì nhân dân mà chiến đấu. Khởi đầu, “là một quân đội thơ ấu. Tinh thần dũng cảm có thừa, nhưng thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ, thiếu mọi mặt”, sự trưởng thành ngày hôm nay của QĐNDVN là nhờ những nỗ lực tự thân kết hợp với sự giúp đỡ, hỗ trợ về quân sự của các nước XHCN, nhất là Liên Xô. Nhờ đó, QĐNDVN không ngừng lớn mạnh, phát triển vượt bậc từ con người, đến trang bị vũ khí, khí tài và kinh nghiệm chiến đấu.

Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2014

CHIẾN LƯỢC LẤN CHIẾM LÃNH THỔ, LÃNH HẢI VIỆT NAM CỦA TRUNG QUỐC: THỜI ĐIỂM HÀNH ĐỘNG VÀ THÔNG ĐIỆP

Nguyễn Thị Mai Hoa
Trung Quốc là quốc gia nhiều tham vọng; trong đó, tham vọng về mở rộng ảnh hưởng, mở rộng địa bàn hoạt động, mở rộng cương vực sinh tồn, lãnh thổ, đất đai là một trong những trục có tính xuyên suốt, nhất quán từ lịch sử tới hiện tại. Áp lực dân số và “ước mơ Trung Hoa” – “ước mơ” trỗi dậy một cách nhanh chóng, trở thành siêu cường có khả năng chi phối thế giới càng củng cố, thúc đẩy Trung Quốc thực hiện chiến lược “lấn dần”, “chèn ép”, tranh đoạt đất đai, sông biển của láng giềng, nhất là của các nước láng giềng nhỏ và yếu hơn.

Thứ Tư, 2 tháng 4, 2014

LIÊN XÔ VỚI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM (1946-1954)

Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, hưởng niềm vui độc lập chưa trọn, Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã phải đối diện với cuộc chiến tranh tái chiếm Đông Dương của Pháp. Tháng 12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Với phương châm "ngoại giao là làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết"[1], Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa nỗ lực mở cánh cửa ra thế giới, tìm kiếm sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ, dân chủ, đặc biệt là của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tuy nhiên, đó là một quá trình không hề đơn giản, dễ dàng.

Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

TRUNG QUỐC ỦNG HỘ, GIÚP ĐỠ VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

Nguyễn Thị Mai Hoa
Bất chấp mọi nỗ lực vãn hồi hòa bình của Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nước Pháp quyết không từ bỏ ý đồ tái chiếm Việt Nam và Đông Dương. Tháng 12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp bắt đầu. Trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, Việt Nam đã nỗ lực "làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết"[1]; đồng thời, thực hiện đoàn kết quốc tế, tranh thủ mọi sự ủng hộ, giúp đỡ, nhất là của Trung Quốc – nước láng giềng kề cận.

Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2014

MÂU THUẪN, XUNG ĐỘT TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC VÀ CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI THÁNG 2-1979

Nguyễn Thị Mai Hoa
Trong những năm đầu sau ngày giải phóng miền Nam Việt Nam (1975), Trung Quốc là nước tiếp tục giúp đỡ, viện trợ cho Việt Nam. Theo một logic thông thường, lý ra sự hợp tác, quan hệ truyền thống giữa hai nước càng phải được củng cố, phát triển. Tuy nhiên, từ giữa năm 1975, do nhiều nguyên nhân lịch sử, chính trị.... quan hệ Việt Nam - Trung Quốc rạn nứt và trở nên không bình thường, rơi vào tình trạng thường xuyên căng thẳng dẫn đến đến đối đầu, xung đột với sự kiện đỉnh cao là cuộc tấn công của Trung Quốc dọc theo biên giới phía Bắc Việt Nam (2-1979).

Thứ Hai, 3 tháng 2, 2014

TÌNH HÌNH TRUNG QUỐC VÀ QUAN ĐIỂM ĐỐI VỚI CHIẾN TRANH VIỆT NAM NHỮNG NĂM 50-60 (XX)



Nguyễn Thị Mai Hoa
Sau khi cách mạng thành công (1949), Trung Quốc bước vào một thời kỳ phát triển mới với những năm tháng khó khăn và đầy biến động. Cuộc đấu tranh củng cố vị trí lãnh đạo trong nội bộ Đảng diễn ra gay gắt, biểu hiện qua các chiến dịch chính trị do chính Mao Trạch Đông phát động: “Phê phán Hồ Thích”, “chống nhóm phản cách mạng Hồ Phong”, “phê phán chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh” và “chống Cao Cương – Nhiêu Thấu Thạch”... Nhận thức ấu trĩ, tả khuynh của một bộ phận các nhà lãnh đạo trong điều hành đất nước làm cho các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc trải qua những gập ghềnh, bất ổn.

Thứ Năm, 2 tháng 1, 2014

VẤN ĐỀ NGƯỜI VIỆT GỐC HOA TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC NHỮNG NĂM 1975-1985



Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
 Sau chiến thắng Mùa Xuân 1975, Đảng, Nhà nước Việt Nam quyết định chuyển đất nước sang một giai đoạn mới: Quá độ lên CNXH trên phạm vi cả nước. Đi lên CNXH sau năm 1975 là bước phát triển kế tiếp của cách mạng mà Đảng, Nhà nước Việt Nam đã lựa chọn sau ngày thống nhất. Trong điều kiện đó, việc tạo dựng và tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi cho mục tiêu phát triển đất nước là hết sức quan trọng, song quan hệ giữa Việt Nam với người láng giềng lớn, kề cận lại liên tục có những khúc mắc, đổ vỡ.
1- Sự rạn nứt trong quan hệ với Trung Quốc trở nên sâu sắc và chuyển dần sang trạng thái căng thẳng, xung đột thể hiện qua hàng loạt sự kiện rắc rối, trước tiên là vấn đề người Việt gốc Hoa.

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

QUAN ĐIỂM CỦA TRUNG QUỐC VỀ VIỆC PHÁT ĐỘNG ĐẤU TRANH VŨ TRANG Ở MIỀN NAM VIỆT NAM (1954-1964)


Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Về cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của Việt Nam, Việt Nam và Trung Quốc có một số bất đồng trên các vấn đề như phát động đấu tranh vũ trang ở miền Nam Việt Nam, tính chất trường kỳ của cuộc kháng chiến, quan hệ giữa cách mạng miền Bắc với cách mạng miền Nam… E ngại chiến tranh ở Đông Dương có thể mở rộng, dẫn đến sự can thiệp sâu rộng của Hoa Kỳ vào Đông Dương, quan điểm của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam là ủng hộ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, kinh qua đấu tranh trường kỳ ảnh hưởng và tranh thủ miền Nam.

Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2013

QUAN HỆ VIỆT NAM- LIÊN XÔ NHỮNG NĂM 1965-1975



Nguyễn Thị Mai Hoa
 Đại học Quốc gia Hà Nội
Thế kỷ XX đã khép lại với rất nhiều sự kiện in dấu đậm nét trong lịch sử nhân loại. Thế kỷ XX cũng ghi nhận những kỳ tích của dân tộc Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đi vào lịch sử như một  biểu tượng cho khát vọng tự do, hoà bình và bản lĩnh, trí tuệ của nhân dân Việt Nam. Tầm vóc, nguyên nhân thắng lợi và những vấn đề liên quan đến cuộc kháng chiến chống Mỹ luôn chiếm được sự quan tâm nghiên cứu và thảo luận sôi nổi. Một trong những câu hỏi thường được đặt ra là: Quan hệ Việt Nam với đồng minh chiến lược quan trọng là Liên Xô trong giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến có diện mạo như thế nào? Nó bị tác động ra sao và ở chừng mực nào bởi các mối quan hệ quốc tế liên quan khác? Bài viết dưới đây nhằm mục đích tìm câu trả lời cho những câu hỏi ấy.

Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

QUAN HỆ VỚI CÁC NƯỚC LÁNG GIỀNG VÀ KHU VỰC TRONG TƯ DUY VỀ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM SAU ĐỔI MỚI (1986)




Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Trong mọi thời điểm, nhân tố quốc tế- thời đại, đặc biệt là vấn đề quan hệ với các nước láng giềng và khu vực luôn có những ảnh hưởng nhất định đến tiến trình phát triển của Việt Nam. Những năm đổi mới, vấn đề này càng được đặt ra cấp thiết; nhận thức và đánh giá đúng vai trò, vị mối quan hệ với các nước láng giềng, khu vực là bước chuyển quan trọng trong tư duy, quan điểm về đối ngoại của Đảng CSVN.

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2013

TRIẾT LÝ NGOẠI GIAO "DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN BIẾN" VỚI CON ĐƯỜNG HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM



Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
1. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” – triết lý hành động của ngoại giao Việt Nam
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, trong tình thế "nước sôi, lửa bỏng", "vận nước lâm nguy", Nhà nước Việt Nam mới đã nỗ lực hết sức mình để đưa đất nước thoát khỏi cảnh "ngàn cân treo sợi tóc". Chuyến sang Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 5-1946 là một trong những cố gắng ấy. Trước lúc rời đất nước (31-5), Hồ Chí Minh dặn dò cụ Huỳnh Thúc Kháng: "Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó mà phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng anh em giải quyết cho. Mong Cụ "dĩ bất biến, ứng vạn biến"[1]. "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" – là sự tổng hoà các phương pháp luận, trở thành chân giá trị, thước đo khả năng quyền biến trở thành phương pháp cách mạng nói chung và phương pháp ngoại giao nói riêng, nhằm đảm bảo sự tồn vong của dân tộc trong điều kiện "thù trong giặc ngoài".

VẤN ĐẾ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP VÀ CHỐNG MỸ (1945-1975)




Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Là một nước nhỏ, với vị trí địa – chính trị, địa- kinh tế đặc biệt, trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, Việt Nam luôn luôn phải đối mặt với sự nhòm ngó, âm mưu thôn tính của nhiều thế lực thù địch khác nhau. Trong lịch sử dân tộc, thắng lợi của hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố tạo nên, trong đó không thể không kể đến một nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh cần và đủ để chiến thắng: Thực hiện đoàn kết quốc tế.

Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2013

THÀNH TỰU VÀ THÁCH THỨC TRONG QUAN HỆ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC 15 NĂM SAU BÌNH THƯỜNG HÓA (1991-2006)





Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
11.  Một số thành tựu cơ bản
Sau khi Việt Nam – Trung Quốc bình thường hóa quan hệ, thông qua các cuộc hội đàm, quan hệ chính trị giữa Việt Nam - Trung Quốc phát triển nhanh chóng. Thành tựu lớn nhất mà hai nước đã đạt được là đã "khép lại quá khứ, mở ra tương lai", xây dựng, phát triển quan hệ kiểu mới – “đồng chí, nhưng không đồng minh”. Đó là cơ sở quan trọng, đặt nền tảng để hai nước tiếp tục hợp tác sâu rộng hơn.
Sau khi bình thường hóa hóa quan hệ (1991), các chuyến thăm hữu nghị rộng rãi, các cuộc hội đàm cấp cao giữa hai nước đã diễn ra sôi động, liên tục.

Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

CHÍNH SÁCH ĐÔI NGOẠI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA SAU NGÀY GIÀNH ĐỘC LẬP



Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công mở ra một kỷ nguyên mới, song không bao lâu sau ngày độc lập, nhân dân Việt Nam đứng trước không ít khó khăn, nguy cơ, thách thức. Thực hiện mục tiêu nhất quán và xuyên suốt - độc lập, tự do, dân chủ, hòa bình, trên nền tảng "thống nhất bên trong, tìm bạn bên ngoài", Đảng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đề ra và thực hiện một tổ hợp các chủ trương, chính sách đối ngoại, kết hợp chặt chẽ giữa đối nội với đối ngoại, để bảo vệ thành quả xương máu của dân tộc.

VIỆT NAM TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ VỚI CÁC ĐỐI TÁC Ở KHU VỰC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG: TỪ QUAN ĐIỂM ĐẾN THỰC TIỄN






Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực có diện tích trải gần nửa bề mặt trái đất với số dân vào khoảng 3,5 tỷ người và được coi là một điển hình về sự năng động trong phát triển, có ảnh hưởng to lớn đối với thế giới. Việt Nam là một quốc gia thuộc khu vực, vì thế, nhận thức đầy đủ và có quan điểm, chủ trương sát hợp trở thành yêu cầu chiến lược trong chính sách đối ngoại đối với khu vực của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
1. Nhận thức của Chính phủ Việt Nam về khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
Trong lịch sử cũng như từ khi bắt đầu từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới cho đến nay  (1986 - 2011), chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn là một trong những cơ sở bảo đảm và tạo điều kiện thuận lợi cho chính sách đối nội được thực hiện hiệu quả.