Thứ Ba, 14 tháng 10, 2014

GIÚP ĐỠ QUÂN SỰ CỦA LIÊN XÔ CHO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM (1954-1975)

Nguyễn Thị Mai Hoa
ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN
Được thành lập vào ngày 22-12-1944 với lực lượng nòng cốt chỉ có 34 chiến sĩ, Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) là quân đội từ nhân dân mà, vì nhân dân mà chiến đấu. Khởi đầu, “là một quân đội thơ ấu. Tinh thần dũng cảm có thừa, nhưng thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ, thiếu mọi mặt”, sự trưởng thành ngày hôm nay của QĐNDVN là nhờ những nỗ lực tự thân kết hợp với sự giúp đỡ, hỗ trợ về quân sự của các nước XHCN, nhất là Liên Xô. Nhờ đó, QĐNDVN không ngừng lớn mạnh, phát triển vượt bậc từ con người, đến trang bị vũ khí, khí tài và kinh nghiệm chiến đấu.

1- Giúp đỡ Quân đội nhân dân Việt Nam chặng đường đầu chống Mỹ (1954-1964)
Bước vào kháng chiến chống Mỹ, trong cuộc đối đầu lịch sử với một đối phương mạnh hơn gấp nhiều lần, có tiềm lực kinh tế, quân sự vượt trội, Việt Nam chủ trương “đẩy mạnh công tác ngoại giao, tăng cường đoàn kết hữu  nghị  với  các nước bạn”[1]; “tăng cường quan hệ anh  em  với  Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa”[2]. Song trong khi cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam hết sức khốc liệt, thì tình hình quốc tế diễn biến rất phức tạp. Đường lối cùng tồn tại hoà bình, tâm lý e ngại "một đốm lửa đốt cháy cả cánh rừng" khiến Liên Xô có thái độ khá thận trọng đối với vấn đề Việt Nam, ủng hộ giữ nguyên hiện trạng. Sau Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (1963)[3], quan hệ Việt - Xô phủ bóng bởi những nghi kỵ, rơi xuống mức thấp nhất trong lịch sử quan hệ hai nước,
Dù vậy, trước yêu cầu của Việt Nam, Liên Xô vẫn sẵn sàng giúp đỡ. Năm 1961, Hải quân Liên Xô chuyển giao cho Hải quân Việt Nam 12 tàu phóng ngư lôi và 4 tàu chống tàu ngầm[4]. Từ năm 1961 đến năm 1964, trong tổng số 70.295 tấn hàng quân sự Việt Nam nhận được từ các nước XHCN, có tới 47.223 tấn là của Liên Xô[5].
Từ năm 1964, những chuyến hàng viện trợ quân sự đầu tiên của Liên Xô gồm những chủng loại vũ khí, khí tài hiện đại đối với việc nâng cao khả năng phòng thủ của miền Bắc đã đến Việt Nam. Liên Xô giúp đỡ trang bị Trung đoàn không quân tiêm kích (921) đầu tiên của QĐNDVN; nhờ đó, lần đầu tiên trong lịch sử, trong thành phần lực lượng vũ trang Việt Nam có máy bay phản lực chiến đấu hiện đại[6]. Về trị giá viện trợ từng năm, theo Báo cáo của Bộ Ngoại giao Liên Xô (10-1965), từ năm 1962 đến năm 1965, Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam trang thiết bị quân sự (trong đó có cả máy bay) trị giá gần 200 triệu USD và hơn một nửa số này (60%) được chuyển cho Việt Nam trong năm 1965[7].
Ngoài chi viện vật chất, Liên Xô cử chuyên gia giúp Việt Nam xây dựng các công trình công nghiệp quốc phòng, trao đổi, bồi dưỡng các vấn đề quân sự.
Tháng 1-1961, Liên Xô cử Đoàn cán bộ quân sự sang giúp Việt Nam xây dựng quân, binh chủng[8]. Sau một thời gian nghiên cứu, khảo sát, phân tích tình hình, các chuyên gia quân sự Liên Xô lên kế hoạch xây dựng lực lượng, tổ chức huấn luyện, đào tạo cán bộ, dự trữ chiến lược, xây dựng các cơ quan tham mưu tác chiến, xây dựng các công trình phòng ngự quốc gia... Từ năm 1955 đến cuối năm 1962, Bộ Tổng tham mưu QĐNDVN thường xuyên tham vấn các tùy viên chuyên gia quân sự Liên Xô về những vấn đề quân sự quan trọng[9]. Tính đến tháng 4-1964, "tổng số chuyên gia Liên Xô công tác tại Việt Nam có 44 người (có 2 cấp tướng và 30 chuyên gia)”[10].
Nhằm tăng cường đội ngũ cán bộ, chuyên gia, sĩ quan có chuyên môn cao cho quân đội, Quân ủy Trung ương tích cực gửi người sang học tập tại các trường quân đội Liên Xô. Đến tháng 4-1964, có 1.450 người được gửi sang học ở 31 trường quân sự (trong đó có 91 cấp tá, 546 cấp ủy, 135 người học ngành chính trị, 354 người học kỹ thuật và các ngành, 48 người học ngành y…)[11]. Các học viên được đào tạo trong môi trường học tập thuận lợi, được tiếp xúc với các chuyên gia giỏi và chương trình học tập tiên tiến.
2- Bước ngoặt trong quan hệ Việt - Xôquyết định tăng cường viện trợ quân sự cho Quân đội nhân dân Việt Nam (2-1965)
Đầu năm 1964, tình hình Việt Nam bắt đầu nóng dần. Bị vong lục số 288 (17-3-1964) của Hội đồng An ninh quốc gia Hoa Kỳ cam kết tăng cường sự ủng hộ về tài chính, quân sự và chính trị cho Chính phủ Việt Nam Cộng hòa[12]. Sau sự kiện tháng 8-1964, Quốc hội Mỹ thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, Tổng thống L.J.Johnson có đủ căn cứ pháp lý cho việc mở rộng chiến tranh ở Việt Nam, tăng cường sự hiện diện ở Đông Nam Á. E ngại trước những nỗ lực và hành động quyết liệt của Mỹ trong tăng cường ảnh hưởng nhằm làm thay đổi cân quyền lực trên thế giới và trong khu vực; đồng thời, lo sợ khả năng Trung Quốc tìm kiếm quan hệ với Washington để cân bằng địa vị, chống Liên Xô, Ban lãnh đạo Liên Xô bắt đầu có những điều chính chính sách đối với châu Á và cân nhắc lại quan hệ với Việt Nam.
Tháng 2-1965, A.N. Kosygin đặt chân tới Hà Nội. Chuyến thăm Việt Nam của A.N. Kosygin lập tức thu hút sự quan tâm của Hoa Kỳ. Có một chi tiết khá đặc biệt, tưởng như bên lề sự kiện, song lại có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đối với những quyết định của A.N. Kosygin về vấn đề Việt Nam. Vừa đặt chân xuống mảnh đất Việt Nam xa xôi, A.N. Kosygin đã phải đối diện với gương mặt gớm ghiếc, lạnh lùng của chiến tranh. Những trận mưa bom Mỹ dội xuống miền Bắc Việt Nam trùng vào thời gian A.N. Kosygin đang ở thăm Hà Nội, cho dù tin tức về chuyến thăm đã được các phương tiện thông tin đại chúng của Liên Xô loan báo rộng rãi. Moscow coi việc Mỹ ném bom khi A.N. Kosygin vừa đặt chân tới Hà Nội là "một hành động thiếu thiện chí", là sự xúc phạm không thể tha thứ đối với A.N. Kosygin và Liên Xô. Moscow không loại trừ khả năng Mỹ đã tính toán và lựa chọn kỹ càng thời điểm các cuộc ném bom lên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam nhằm làm mất thể diện của Liên Xô, lập tức gửi một bức điện mật cho Chính phủ Mỹ, lên án gay gắt hành động nói trên. Bản thân A.N. Kosygin cũng không thể tha thứ cho hành động coi thường quốc thể này. Theo A. Dobrynin thì chính “cuộc ném bom đã khiến A.N. Kosygin chuyển sang lập trường chống L.Johnson, mặc dù trước đó giữa họ có mối quan hệ khá tốt"[13]. A.N. Kosygin tuyên bố mạnh mẽ và cứng rắn: “Đừng ai có ảo tưởng rằng cuộc xâm lược chống nhân dân Việt Nam sẽ có thể không bị trừng trị”[14]. Ngay trong chuyến thăm, A.N. Kosygin cam kết giúp đỡ Việt Nam củng cố, tăng cường các hệ thống phòng không, tăng cường khả năng phòng thủ chống lại sự tấn công từ trên bầu trời.
Việc Mỹ ném bom Hà Nội đã xóa đi những hy vọng cuối cùng của Moscow về việc dàn xếp, tránh quốc tế hoá cuộc xung đột ở Việt Nam. Trong tình thế danh dự nước lớn bị thách thức, Liên Xô đã buộc phải đi tới một quyết định khó khăn: gác qua một bên chính sách không tham dự, dấn sâu vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Trận mưa bom trên bầu trời Hà Nội khi có mặt vị thượng khách đến từ Liên Xô đã khiến mâu thuẫn Xô - Mỹ nổ tung, trở thành chất xúc tác chuyển hóa những kế hoạch của Liên Xô sớm thành hiện thực – thắt chặt quan hệ với "quốc gia tiền đồn chủ nghĩa xã hội tại Đông Nam Á", lấy lại uy tín bị giảm sút trong phong trào cách mạng thế giới do chính sách tiêu cực đối với cuộc chiến tranh Việt Nam, kiềm chế Trung Quốc, làm cho Mỹ sa lầy nghiêm trọng trong chiến tranh Việt Nam, nhờ đó, có thể dồn sức cho khu vực châu Âu và Viễn Đông, nhanh chóng đuổi kịp, vượt Mỹ.
Với những thay đổi đột biến, tháng 2-1965 được coi là bước ngoặt quan trọng trong quan hệ Việt -Xô, khởi đầu cho một thời kỳ mới gắn bó và hợp tác chặt chẽ. Ngay sau những tuyên bố cứng rắn của Chính phủ Liên Xô, từ đầu tháng 3-1965, những chuyến hàng viện trợ quân sự đầu tiên đã được gửi đến Việt Nam mà không cần những ký kết chính thức.
Trong các cuộc gặp gỡ, bàn bạc giữa Bộ Quốc phòng hai nước về giúp đỡ quân sự cho QĐNDVN, hai bên thống nhất về nguyên tắc viện trợ như sau: 1- Số lượng trang bị kỹ thuật mà Chính phủ Liên Xô thuận cấp cho Việt Nam là viện trợ không hoàn lại, gồm vũ khí, thiết bị quân sự, đạn dược, phụ tùng và các vật liệu quân sự chuyên biệt; 2- Việt Nam gửi cán bộ sang Liên Xô học tập kỹ thuật mới; 3-Liên Xô cử chuyên gia quân sự sang Việt Nam huấn luyện bộ đội Việt Nam sử dụng, tiếp nhận vũ khí, khí tài; 4- Liên Xô hỗ trợ Việt Nam xây dựng, trang bị vật chất cho các cơ sở có mục đích quân sự; 4- Hai bên thống nhất các biện pháp chủ yếu đảm bảo vận chuyển viện trợ kịp thời và chu đáo.
Theo các bản cam kết và ghi nhớ, các loại trang thiết bị quân sự Liên Xô viện trợ cho Việt Nam gồm: Tên lửa đất đối không (SAM), pháo cao xạ, thiết bị ra đa, thiết bị vô tuyến điện tử, bệ phóng tên lửa, máy bay chiến đấu MiG-17, máy bay chiến đấu siêu thanh MiG-21, IL-28, máy bay tiêm kích SU-17, máy bay vận tải IL14, LI-2, xe tăng T-34 và T-54, khí tài vượt sông; một số khí tài thông tin, phòng hóa[15]… Nhìn chung, vũ khí, khí tài đa dạng về chủng loại, tối tân, hiện đại, có khả năng phát huy tốt trên chiến trường Việt Nam.
3- Tiếp nhận viện trợ, từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng (1965-1975)
Để chuẩn bị cho việc ký kết với Liên Xô về giúp đỡ quân sự, ngày 25-2-1965, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp, bàn bạc, thống nhất về yêu cầu viện trợ; theo đó,  Liên Xô viện trợ cho QĐNDVN “200 khẩu 14,5ly, 48 khẩu 100ly, 24 khẩu 130ly, 50 xe tăng T-54, 31 xe PT-76, 152 khẩu 57ly, 20 máy bay MiG-17, 8 máy bay IL-28, 12 máy bay AN-2, 6 tàu phóng ngư lôi, 4 tàu vớt mìn, 2 tàu huấn luyện vớt mìn, 680 máy vô tuyến điện và dự định sẽ giúp Việt Nam 50.000 bộ quân trang”[16]. Ngoài việc tăng số lượng và chủng loại vũ khí trang bị, Liên Xô đề nghị gửi một số đơn vị sang bảo vệ khu vực Hà Nội, Hải Phòng. Do một số lý do tế nhị và để tránh va chạm với Trung Quốc, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết nghị không nhận các đơn vị chiến đấu của Liên Xô gửi sang Việt Nam, chỉ xin trang bị và đề nghị Liên Xô cử chuyên gia sang giúp.
Để phối hợp hoạt động, từ ngày 21 đến ngày 27-3-1965, tại Thủ đô Hà Nội, Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam và Đoàn đại biểu Chính phủ Liên Xô tổ chức Hội nghị bàn về việc Liên Xô viện trợ quân sự cho Việt Nam trong năm 1965. Sau khi hội đàm, hai đoàn đã thống nhất: Trong năm 1965, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam lượng hàng quân sự trị giá khoảng 200 triệu rúp; cử 290 chuyên gia giúp huấn luyện kỹ thuật cho lữ đoàn tên lửa phòng không, 14 chuyên gia huấn luyện phi công và nhân viên kỹ thuật hàng không, 14 chuyên gia giúp huấn luyện cho hải quân, tổng số tất cả là 318 người[17]. Dự định đầu tháng 4 -1965, vũ khí, khí tài được vận chuyển theo đường bộ xuyên Liên Xô – Mãn Châu Lý – Bằng Tường về Việt Nam; các hạm tàu hải quân đi theo đường biển về Bãi Cháy; 8 máy bay IL – 28 đi bằng đường không qua Trung Quốc, biên chế vào Trung đoàn Không quân 921[18].
Theo thỏa thuận giữa hai nước, ngày 6-7-1965, Hội đồng Bộ trường Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết ban hành Quyết định № 525-200, Về việc thành lập Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[19]. Quyết định № 525-200 xác định nhiệm vụ của Đoàn chuyên gia: “Trong thời gian ngắn nhất, giảng dạy và huấn luyện lực lượng Phòng không - không quân Việt Nam đủ khả năng tác chiến”[20].
Từ năm 1965 đến năm 1968, tổng số chuyên gia Liên Xô có mặt tại Việt Nam là 3.019 người[21]. Đến tháng 12-1968, 2.743 chuyên gia Liên Xô rút về nước, chỉ còn lại 285 người[22]. Đến đầu năm 1969, theo quyết định của Thường trực Quân ủy Trung ương, 285 chuyên gia còn lại cũng rút hết về nước. Tháng 4-1970, để tiếp tục giúp Việt Nam đào tạo cán bộ, huấn luyện sử dụng, sửa chữa các loại phương tiện vũ khí, khí tài, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô cử sang Việt Nam 310 chuyên gia[23]. Tháng 11-1971, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trần Sâm tiếp tục đề nghị Liên Xô cử thêm chuyên gia làm nhiệm vụ sửa chữa, hướng dẫn đào tạo cán bộ, chiến sĩ sử dụng khí tài A-72 và B-72[24]. Theo thống kê của Tổng cục tác chiến, Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô, từ ngày 11-7-1965 đến ngày 31-12-1974, có 6.359 sĩ quan, tướng lĩnh và hơn 4.500 binh sĩ, hạ sĩ quan các lực lượng vũ trang Liên Xô tham gia chiến đấu tại Việt Nam,13 chuyên gia quân sự Liên Xô đã hy sinh[25].
Từ năm 1965 đến năm 1972, Việt Nam và Liên Xô đã ký kết gần 20 thỏa thuận, cam kết, ghi nhớ và hiệp định về viện trợ quân sự. Thực hiện các hiệp định, thỏa thuận và cam kết, từ tháng 3-1965, “lực lượng phòng không của Việt Nam được trang bị pháo cao xạ 37 mm và súng phòng không 57 mm. Từ tháng 7-1965, tổ hợp tên lửa đất đối không tầm cao SA-75 Dvina (SAM) đã có mặt ở Việt Nam[26]. Ngoài khối lượng viện trợ quân sự ước tính chừng 210 triệu USD (chiếm 60% tổng viện trợ kinh tế)[27], trong kế hoạch viện trợ 2 năm 1965-1966, Liên Xô còn giúp thêm Việt Nam một khối lượng hàng hóa vật chất tương đối lớn.
Theo Báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Liên Xô (12-1967), năm 1967 là năm Liên Xô cung cấp viện trợ cao nhất cho Việt Nam[28]; theo đó, Liên Xô  viện trợ cho Việt Nam trị giá khoảng 416 triệu rúp[29], chủ yếu là khí tài phòng không, không quân, xe tăng, pháo binh, máy bay chiến đấu MiG -21, F13 và MiG -17 F, tên lửa, các khí tài chống nhiễu, các trạm rađa SNAR-6[30]
Năm 1968 (thời gian Việt Nam chuẩn bị và thực hiện cuộc Tổng tiến công chiến lược Mậu thân 1968), “Liên Xô viện trợ cho Việt Nam 357 triệu rúp (tương đương 369,7 triệu USD[31]), chiếm 2/3 tổng toàn bộ viện trợ mọi mặt”[32]. Tổng cộng lại, những năm 1965-1968, khối lượng viện trợ quân sự của Liên Xô cho QĐNDVN là 257.912 tấn, trị giá ước khoảng 1.173 triệu rúp[33]. Liên Xô trở thành nước viện trợ quân sự chủ yếu với trị giá viện trợ lớn nhất cho QĐNDVN và viện trợ nhiều nhất vào hai năm 1965, 1967. Vũ khí Liên Xô viện trợ tương đối hiện đại (có loại pháo mới ĐKZ- B), nhưng phần lớn đã qua sử dụng, trừ MiG -21, ĐKZ- B, cao xạ 23 ly, xe kéo pháo bánh xích, ô tô[34].
Những năm 1969-1972, viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam đạt 143.793 tấn[35], chủ yếu là các loại khí tài phòng không, không quân, xe tăng, pháo bình. Các loại thiết bị nhìn chung là mới, tương đối hiện đại và hiện đại, phát huy tác dụng tốt trên chiến trường. Ngoài vũ khí, khí tài, Liên Xô còn giúp các thiết bị cho các xưởng, trạm sửa chữa, thiết bị cho các nhà trường và các viện nghiên cứu quân sự.
Năm 1973, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam ước tính vào khoảng 210 triệu rúp, so với yêu cầu, có loại đạt 100%, có loại chỉ đạt khoảng từ 50-60%, cũng có loại chỉ đạt 20-40%. Đây cũng là năm Liên Xô cung cấp cho Việt Nam một số trang bị mới như tàu chở xe tăng đổ bộ, tàu phá thủy lôi (10 chiếc), xe bọc thép có gắn tên lửa chống tăng (20 chiếc)[36]Trong hai năm 1974 và 1975, viện trợ quân sự của Liên Xô tụt giảm: Năm 1974 là 98 triệu rúp;  năm 1975 còn 76 triệu rúp[37].
Theo thống kê của Bộ Quốc phòng Liên Xô, từ năm 1965 đến năm 1974, “Việt Nam nhận được từ Liên Xô 2.056 xe tăng, 1.708 xe bọc thép, 7.000 khẩu súng và súng cối, hơn 5.000 khẩu pháo cao xạ và bệ đỡ, 158 tổ hợp tên lửa, hơn 700 máy bay chiến đấu, 120 máy bay trực thăng, 100 tàu chiến”[38]. Ngoài ra, “Liên Xô giúp Việt Nam xây dựng và đưa vào sử dụng 117 cơ sở quốc phòng”[39]. Những năm 1965-1972, riêng tên lửa phòng không, “Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam 95 tổ hợp SA-75 Dvina và 7.658 tên lửa”[40]. Năm 1972, khi Mỹ tiến hành chiến dịch Linebacker II, Liên Xô gửi gấp sang Việt Nam một số tên lửa S-125 (SAM 3), song do những lý do khách quan, chủ quan, các tên lửa này đã không tham gia chiến đấu.
Không chỉ viện trợ trang bị kỹ thuật, Liên Xô còn giúp Việt Nam đào tạo cán bộ, chiến sĩ tiếp nhận, sử dụng vũ khí viện trợ, nhất là những vũ khí hiện đại. Báo cáo của Đại sứ quán Liên Xô tại Việt Nam cho biết: “Riêng năm 1966, đã có 2.600 người Việt Nam được gửi đào tạo ngành không quân và phòng không tại Liên Xô. Trong năm 1966, Liên Xô đào tạo cho Việt Nam đội ngũ đủ để xây dựng một trung đoàn phòng không, kỹ thuật viên cho một trung đoàn không quân và hàng chục phi công”[41]. Theo Thượng tướng A.I. Hyupenen, Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam (1972-1975), thì đến hết năm 1975, “Liên Xô đào tạo cho Việt Nam ước tính là 13,5 nghìn quân nhân”[42]. Mặc dù gặp phải rào cản ngôn ngữ, trình độ, song các học viên Việt Nam đã nắm bắt kiến thức nhanh chóng, nỗ lực hoàn thành các khóa học.
*                           *
*
Như vậy, ngoài một số vũ khí thông thường, Liên Xô – quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng hùng mạnh đã viện trợ cho Việt Nam những vũ khí hiện đại như máy bay, xe tăng, xe bọc thép, tên lửa, pháo phòng không, pháo binh..., nhờ đó, khả năng quốc phòng của Việt Nam không chỉ được nâng cao một cách căn bản, mà còn có những bước tiến dài.
Tranh thủ sự viện trợ của Liên Xô, QĐNDVN xây dựng lực lượng phòng không, không quân, đặc biệt là tập trung huấn luyện các trung đoàn không quân tiêm kích, tên lửa hiệp đồng tác chiến và các tiểu đoàn phóng lôi của hải quân. Đến cuối năm 1966, đã xây dựng được 17 tiểu đoàn pháo binh, sử dụng một số phân đội xe tăng làm nhiệm vụ bảo vệ bờ biển, hàng chục đại đội pháo binh địa phương, hàng trăm trung đội pháo binh của dân quân, tự vệ. Các trang bị vũ khí, khí tài Liên Xô viện trợ đã phát huy tác dụng tích cực trên chiến trường miền Nam Việt Nam, góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, đẩy mạnh tác chiến hiệp đồng binh chủng, với pháo phòng không, tên lửa đất đối không, ra đa cảnh giới, không quân tiêm kích… bố trí thành thế trận liên hoàn. Trong bài bình luận gửi tờ Barron's Weekly, nhà nghiên cứu Shirley Sheibla nhận xét: “Liên Xô thực sự là "kho vũ khí” của cách mạng Việt Nam”[43].
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam, QĐNDVN trong kháng chiến chống Mỹ không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ của đất nước Liên Xô anh em. Nhân dân Việt Nam, QĐNDVN biết ơn, trân trọng và mãi mãi ghi nhớ sự giúp đỡ quý báu ấy.







[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t.16, Sđd, tr. 216.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr. 786.
[3] Khi quyết định một số vấn đề quan trọng về đường lối cách mạng Việt Nam, về quan hệ quốc tế, trong đó có chủ trương phải thắng đế quốc Mỹ trong “Chiến tranh đặc biệt” và “chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”, Hội nghị đã rơi vào tình trạng quá "tả", cực đoan khi nâng cao quan điểm về sự nguy hiểm của chủ nghĩa xét lại hiện đại và có chiều hướng ngả sang Trung Quốc.
[4]Розин Александр: Советские моряки в оказании интернациональной помощи Вьетнаму в обретении независимости и отражении американской агрессии, alerozin.narod.ru.
[5]Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975: Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.588-601.
[6] Sổ công tác của Đại tướng Văn Tiến Dũng, bản đánh máy, lưu tại Ban Tổng kết lịch sử, Bộ Tổng tham mưu.
[7] Báo cáo của Bộ Ngoại giao Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày  26-10-1965, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 17, đơn vị bảo quản số 165, hồ sơ số 140, tài liệu số 55, tr.2 (tiếng Nga).
[8] Tài liệu lưu trữ, Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Bộ Tổng tham mưu, hồ sơ số 604.
[9] Sổ công tác của Đại tướng Văn Tiến Dũng, bản đánh máy, sao trích quyển số 7, số 8, lưu tại Ban Tổng kết lịch sử, Bộ Tổng tham mưu.
[10] Sổ công tác của Đại tướng Văn Tiến Dũng, bản đánh máy, lưu tại Ban Tổng kết lịch sử, Bộ Tổng tham mưu.
[11] Указ. Соч.

[12]National Security Action Memorand 288: Implementation of South Vietnam Programs, Johnson Library, National Security File, NSAMs. Secret.

[13] Добрынин Анатолий:  Сугубо доверительно, Изд. “Автор”, Москва, 1996, C. 127.
[14] Dẫn theo Nguyễn Phúc Luân: Ngoại giao hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1954-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.207.
[15]АВП РФ, ф. 17, оп. 165, п.140, д. 55, л.2.
[16] Sổ công tác của Đại tướng Văn Tiến Dũng, quyển 12.
[17] Tlđd.
[18] Tài liệu lưu trữ, Trung tâm lưu trữ Quốc phòng, phông Bộ Tổng tham mưu, hồ sơ số 1247.
[19]А.В. Окороков: Секретные войны Советского Союза, Первая полная энциклопедия (fb2), издано 2008, C.198.
[20]Указ. Соч, C.348.
[21] Sổ công tác của Đại tướng Văn Tiến Dũng, quyển 12.
[22] Tlđd.
[23] Tài liệu lưu trữ, Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Bộ Quốc phòng, hồ sơ số 1262.
[24] Tài liệu lưu trữ, Tlđd, hồ sơ số 1320.
[25] Война   во   Вьетнаме ... Как  это   было  (1965 - 1973, изд-во "Экзамен", 2005 г, C.320.

[26]Báo cáo của Tổng cục 10…Tlđd, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ sơ số 114, tài liệu số 15, tr.4 (tiếng Nga)

[27]Sources of Military Equipment to North Vietnamese Military Forces, 1975, Archives, The International Institute For Strategic Studies, Volume I, p.5.
[28] Báo cáo của Bộ Ngoại giao Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày  28-12-1967, Tlđd, tr.3.
[29] Tài liệu lưu trữ, Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Quân ủy Trung ương, hồ sơ số 817.
[30] Thư đề nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô viết về viện trợ quân sự khẩn cấp trong năm 1967, ngày 3-6-1967, tài liệu trữ, Trung tâm lưu trữ  Bộ Quốc phòng, phông Bộ Tổng tham mưu.
[31] Tỷ giá quy đổi USD theo tỷ giá hối đoái chính thức của Liên Xô:1USD =0,9 rúp.
[32] Báo cáo của Tổng cục 10, Bộ Quốc phòng, Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 30-12-1968, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ sơ số 145, tài liệu số 21, tr.6.
[33] Tổng hợp số liệu, (tài liệu họp Quân ủy Trung ương), Quân ủy Trung ương, 1969, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ, Bộ Quốc phòng, tr.119.
[34] Bộ Tổng tham mưu, Báo cáo Thường trực Quân uỷ Trung ương về đề nghị các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ quân sự năm 1968, ngày 8-5-1967, tài liệu trữ Bộ Quốc phòng, phông Bộ Tổng tham mưu, hồ sơ 1150.
[35], Thống kê số liệu viện trợ quốc tế,Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng ,Tlđd.
[36] Tài liệu lưu trữ, Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Bộ Tổng tham mưu, hồ sơ số 1577.
[37] Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, t.8, tr. 22.
[38] В.А. Золотарева (Под ред): Россия (СССР) в локальных войнах и военных конфликтах второй половины XX века, Кучково поле, Полиграфресурсы, М, 2000, C.100.
[39] В.А. Золотарева (Под ред): Россия (СССР), Указ. Соч, C.100.
[40] Báo cáo của Tổng cục 10, Bộ Quốc phòng, Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 30-12-1972, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ sơ số 150, tài liệu số 25, tr.8.
[41] Báo cáo của Đại sứ quan SSSR tại Việt Nam gửi  Bộ Ngoại giao Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày  25-12-1966, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 17, đơn vị bảo quản số 165, hồ sơ số 142, tài liệu số 12, tr.8 (tiếng Nga).
[42] Báo cáo của Tổng cục 10, Bộ Quốc phòng, Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ngày 30-12-1975, Trung tâm lưu trữ quốc gia Liên bang Nga, phông 585, đơn vị bảo quản số 4, hồ sơ số 160, tài liệu số 20, tr.9.
[43] Barron's Weekly, Jan. 4, 1971.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!