Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Thế kỷ XX đã khép lại với rất nhiều
sự kiện in dấu đậm nét trong lịch sử nhân loại. Thế kỷ XX cũng ghi nhận những
kỳ tích của dân tộc Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đi vào
lịch sử như một biểu tượng cho khát vọng tự do, hoà bình và bản lĩnh, trí
tuệ của nhân dân Việt Nam. Tầm vóc, nguyên nhân thắng lợi và những vấn đề liên
quan đến cuộc kháng chiến chống Mỹ luôn chiếm được sự quan tâm nghiên cứu và thảo
luận sôi nổi. Một trong những câu hỏi thường được đặt ra là: Quan hệ Việt Nam
với đồng minh chiến lược quan trọng là Liên Xô trong giai đoạn khốc liệt nhất
của cuộc kháng chiến có diện mạo như thế nào? Nó bị tác động ra sao và ở chừng
mực nào bởi các mối quan hệ quốc tế liên quan khác? Bài viết dưới đây nhằm mục
đích tìm câu trả lời cho những câu hỏi ấy.
1. Quan hệ Việt Nam – Liên Xô ấm lên
và phát triển
Trong những năm 1965-1975, quan hệ
Việt Nam – Liên Xô có những biến đổi rõ rệt, theo chiều hướng tích cực. So sánh
quan hệ Việt Nam – Liên Xô những năm 1965-1975 với giai đoạn trước đó - từ khi
hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao tới trước năm 1965, có thể thấy rằng,
quan hệ Việt Nam – Liên Xô những năm 1950-1965 nổi lên hai xu hướng chính:
Xu
hướng tích cực
Xu hướng này thể hiện ở hai điểm chủ
yếu: Thứ nhất, trong thời kỳ 1950-1954, Liên Xô triển khai nhiều hoạt
động hỗ trợ cuộc đấu tranh vì độc lập của nhân dân Việt Nam về mặt vật chất và
tinh thần, tạo điều kiện cho Việt Nam đẩy nhanh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến kết
thúc; thứ hai, từ năm 1954-1965, mặt tích cực trong quan hệ Việt Nam –
Liên Xô được đánh giá thông qua chủ trương ủng hộ việc khôi phục, xây dựng miền
Bắc với sự viện trợ vật chất to lớn (viện trợ không hoàn lại, cho vay các khoản
ưu đãi và vay dài hạn; giúp Việt Nam chuyên gia, thiết bị và kỹ thuật trong các
kế hoạch kinh tế 1954-1957, 1957-1960, 1961-1965...).
Xu
hướng tiêu cực
Xu hướng này là kết quả của những tính toán chiến lược của
Liên Xô trong bối cảnh thế giới diễn biến đầy phức tạp, chịu sự tác động mạnh
mẽ của lợi ích Liên Xô và Mỹ. Xu hướng này được biểu hiện cụ thể như sau:
Liên Xô
vẫn chưa coi trọng quan hệ với Việt Nam như với một số nước châu Á khác (Ấn Độ,
Miến Điện, Inđônêxia…). Liên Xô tích cực giúp đỡ các nước lớn không phải thể
chế chính trị XHCN ở châu Á [1], nhưng
lại dè dặt giúp đỡ Việt Nam. Bên cạnh đó, Liên Xô thực hiện một chính sách đối ngoại khôn ngoan, tránh dính líu
trực tiếp vào các xung đột, tranh chấp khu vực. Tại Hội nghị Geneve, Liên Xô
giữ quan hệ Pháp - Tưởng làm đối trọng, nên đã im lặng trước mục tiêu quay lại Đông Dương của Pháp. Cùng lúc, thái
độ của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam có nhiều
điểm không thuận. Liên Xô muốn Việt Nam chỉ tập trung xây dựng kinh tế ở miền
Bắc, chủ trương giữ nguyên hiện trạng ở miền Nam và đấu tranh hoà bình thi hành
Hiệp định Geneve, giải quyết vấn đề miền Nam thông qua thương lượng. Quan hệ
Việt Nam – Liên Xô đặc biệt xấu đi kể từ sau Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam (khoá III- 12/1963) [2]. Khorusov gây sức ép với Việt Nam, dọa cắt khoản viện trợ
quân sự vốn đã ít ỏi (2-1964), có những tín hiệu để Việt Nam hiểu rằng “sẽ
không có triển vọng cho việc hợp tác chặt chẽ giữa hai nước, nếu Hà Nội không thay
đổi lập trường” [3]. Khi Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời (12-1960), Liên Xô không muốn đề cao
vai trò của của Mặt trận, phản ứng thận trọng trước sự kiện Vịnh Bắc Bộ
(8-1964). Đây là giai đoạn xấu nhất trong lịch sử quan hệ hai nước.
Từ năm 1965 trở đi, tình hình quốc
tế có những diễn biến mới, phức tạp. Cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở Việt
Nam ngày càng trở nên khốc liệt và thu hút sự chú ý, quan tâm của cả nhân loại.
Vấn đề Việt Nam trở thành vấn đề chính trị quốc tế, liên quan trực tiếp đến lợi
ích của nhiều nước trên thế giới. Đối với Liên Xô, thái độ tiêu cực đối với
cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam đã làm cho uy tín của Liên Xô bị
giảm sút trong phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế. Sự thay đổi Ban lãnh
đạo (10-1964) ở Liên Xô đã dẫn đến những điều chỉnh về đường lối đối nội, đối
ngoại, nhằm khôi phục uy tín trong và ngoài nước, tăng cường lực lượng của Liên
Xô nhân lúc Mỹ bị sa lầy ở Việt Nam, tạo thế có lợi tiếp tục hoà hoãn với Mỹ,
đối phó với sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc. Trong bối cảnh ấy, quan hệ Việt
Nam – Liên Xô dần ấm lên, thể hiện trên những mặt sau:
Ủng hộ về mặt chính trị
Từ năm 1965 trở đi, Liên Xô tăng
cường quan hệ hữu nghị, hợp tác chặt chẽ với Việt Nam, dành cho Việt Nam sự ủng
hộ to lớn và toàn diện. Đảng và Chính phủ Liên Xô khẳng định lại vai trò “đồng
Chủ tịch Hội nghị Giơneve” về Đông Dương. Tháng 1-1965, Liên Xô chấp thuận cho
MTDTGPMN đặt đại diện thường trú tại Liên Xô. Tháng 2- 1965, Đoàn đại biểu Liên
bang CHXHCN Xô - viết do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A.N.Côxưghin dẫn
đầu thăm chính thức Việt Nam. Trong cuộc gặp gỡ, Liên Xô và Việt Nam cũng nhất
trí về những biện pháp nhằm củng cố khả năng phòng thủ của Việt Nam DCCH. Quan
điểm này của Liên Xô được đưa ra đúng vào thời điểm Mỹ bắt đầu ném bom dữ dội
miền Bắc Việt Nam; do vậy, nó có một ý nghĩa hết sức tích cực. Sau chuyến thăm
Việt Nam, Thủ tướng A.N. Côxưgin đã ghé qua Bắc Kinh trên đường về nước, gặp
Thủ tướng Chu Ân Lai và nêu vấn đề “thống nhất hành động ủng hộ Việt Nam”. Ngày
9-2 1965, lần đầu tiên về mặt Nhà nước, Liên Xô chính thức ra tuyên bố cảnh cáo
Mỹ ném bom lãnh thổ nước Việt Nam DCCH. Đặc biệt, việc Liên Xô lên án đế quốc
Mỹ một cách găy gắt khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ
nhất đã góp phần động viên tinh thần của nhân dân Việt Nam và tập trung sự chú
ý của dư luận tiến bộ trên thế giới vào vấn đề này. Kể từ thời điểm này, mối
quan hệ Việt Nam - Liên Xô bước vào một giai đoạn phát triển mới về chất. Hàng
loạt các chuyến thăm viếng ngoại giao giữa hai nước đã chứng minh nhận định
trên. Theo thống kê, từ năm 1965-1975, giữa Việt Nam và Liên Xô đã có 51 cuộc
gặp gỡ cấp cao từ uỷ viên Bộ Chính trị trở lên [4]. Các cuộc hội đàm nhằm mục
đích thống nhất nhận thức và đảm bảo cho lợi ích của từng nước, cũng như lợi
ích chung của toàn khối XHCN.
Ngày 17-8-1966, tại Liên Xô, 6.000
đại biểu nhân dân Thủ đô Matxcơva đã tiến hành mít tinh trọng thể, nhiệt liệt
hưởng ứng lời kêu gọi chống Mỹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại hội XXIII Đảng
Cộng sản Liên Xô (1966) được tổ chức trùng vào thời điểm Mỹ đánh phá ác liệt,
mở rộng “chiến tranh cục bộ” trên toàn bộ chiến trường miền Nam đã đã giao
trọng trách cho Đảng Cộng sản Liên Xô và Chính phủ Xô-viết “làm tất cả những gì
có khả năng để chấm dứt sự xâm lược của Mỹ tại Việt Nam, để quân đội Mỹ và quân
đội nước ngoài rút khỏi miền Nam Việt Nam, tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam
tự giải quyết công việc nội bộ” [5].
Liên Xô luôn thể hiện thái độ ủng hộ
Việt Nam trong quan hệ với Mỹ, đề cao vấn đề Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong cuộc gặp gỡ cấp cao giữa Tổng thống Mỹ Giônxơn và Thủ tướng A.N. Côxưghin
tại Mỹ (6-1967), Liên Xô thể hiện mong muốn một giải pháp hoà bình cho vấn đề
Việt Nam, nhấn mạnh: Việc giải quyết vấn đề Việt Nam chỉ có thể thực hiện được
nếu Mỹ chấm dứt ném bom Việt Nam DCCH và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Năm 1968, Liên Xô đã nỗ lực triệu tập Hội nghị bốn bên tại Paris để tìm một
giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam. Năm 1969, khi Chính phủ Cách mạng lâm
thời ở miền Nam Việt Nam được thành lập, Liên Xô đã công nhận và thiết lập quan
hệ ở cấp đại sứ với Chính phủ. Sự kiện này góp phần làm tăng thêm uy tín của cơ
quan chính quyền nhân dân miền Nam Việt Nam trên trường quốc tế. Từ đó, Liên Xô
thường xuyên có những cuộc tiếp xúc, trao đổi về mặt nhà nước với Chính phủ
CMLTMNVN, đánh giá cao và ủng hộ đề nghị 10 điểm của Chính phủ CMLTMNVN.
Từ năm 1970 đến năm 1975, trên các
diễn đàn quốc tế, trong Đại hội các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế, hoặc
nhân các chuyến trao đổi đoàn đại biểu các cấp với các nước khác... Liên Xô
thường xuyên nêu vấn đề chiến tranh Việt Nam và thể hiện thái độ ủng hộ cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Liên Xô tích cực giúp đỡ
Việt Nam vận động các đoàn thể chính trị thế giới, tổ chức nhiều hội nghị quốc
tế, tranh thủ sự đồng tình của các lực lượng tiến bộ đối với Việt Nam.
Tăng cường viện trợ vật chất
Những năm 1965-1975, một trong những
ủng hộ kịp thời và giá trị của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của
nhân dân Việt Nam là viện trợ quân sự. Tên lửa “đất đối không” của Liên Xô đã
được sử dụng lần đầu tiên tại Việt Nam vào ngày 24-7-1965 và đã bắn rơi
máy bay Mỹ. Trong giai đoạn 1965-1968, số hàng viện trợ quân sự của Liên Xô
tăng vọt: 226.969 tấn [6]. Mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, khi cuộc chiến đấu
của quân dân Việt Nam trên cả hai miền Nam, Bắc diễn ra quyết liệt, Việt Nam
rất cần vũ khí, đạn dược, Liên Xô đã đưa gấp sang Việt Nam “100 khẩu súng chống
tăng, 500 súng cối các loại, 400 dàn pháo phản lực và 45 chiếc máy bay chiến đấu”
[7]. Như vậy, trong hai năm 1966-1967, Liên Xô là nước cung cấp chủ yếu viện
trợ quân sự cho Việt Nam. Tính ra, “Liên Xô đã cung cấp 500 triệu rúp trang
thiết bị cho lực lượng quân sự Bắc Việt Nam (xấp xỉ 550,5 triệu USD)” [8].
Trong những năm 1969-1972, mức viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam đạt
143.793 tấn. Chỉ riêng năm 1969, giá trị hàng viện trợ quân sự lên tới 1,1 tỷ
rúp. Cùng với viện trợ quân sự, Liên Xô còn tích cực đào tạo giúp Việt Nam đội
ngũ cán bộ quân sự giỏi, có thể vận hành được những vũ khí hiện đại do Liên Xô
cung cấp và chỉ riêng năm 1966, có 2.600 sĩ quan Việt Nam được đào tạo tại Liên
Xô; đồng thời, nhiều chuyên gia quân sự của Liên Xô đã sang chiến trường Việt
Nam trực tiếp giúp bộ đội Việt Nam về kỹ thuật. Từ năm 1969 đến năm 1971,
Liên Xô đã ký với Việt Nam 7 hiệp nghị viện trợ và tăng cường hợp tác kinh tế,
quốc phòng. Những năm 1973-1975, Liên Xô chuyển sang Việt Nam 65.601 tấn hàng
hậu cần và trang bị vũ khí, kỹ thuật [9]. Đây là một trong những điều kiện đảm
bảo cho quân dân Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động quân sự và giành thắng lợi
quyết định trên chiến trường, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris (1-1973) và đẩy
nhanh kháng chiến chống Mỹ đi đến kết thúc trong giai đoạn hậu Hội nghị Paris.
Bên cạnh các viện trợ quân sự, Liên
Xô cũng tăng cường viện trợ kinh tế cho Việt Nam. Kể từ năm 1965, Liên Xô đã ký
với Việt Nam nhiều hiệp định viện trợ và hợp tác. Riêng năm 1965-1966, Liên Xô
đã chuyển sang Việt Nam khối lượng hàng hoá trị giá khoảng 38,5 triệu rúp [10].
Trong năm 1968, Liên Xô đã viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam ước tính
khoảng 543,3 triệu rúp (tương đương với 608,1 triệu USD) [11]. Như vậy, viện
trợ của Liên Xô cho Việt Nam trong năm 1968 đạt mức cao nhất, chiếm khoảng 50%
viện trợ của các nước XHCN.
Từ năm 1969-1972, Liên Xô và Việt
Nam liên tiếp ký kết các hiệp định về việc viện trợ không hoàn lại, cho vay dài
hạn, về trao đổi hàng hoá... phục vụ cho nhu cầu củng cố quốc phòng và phát
triển kinh tế của Việt Nam. Trên tinh thần các hiệp định đã ký kết, Liên Xô cho
Việt Nam vay khoản tiền ưu đãi là 152 triệu rúp không phải trả lãi. Năm 1973,
Liên Xô xoá cho Việt Nam các khoản nợ cũ từ năm 1973 trở về trước (khoảng 1,3
tỷ rúp), còn trong những năm 1974-1975, Liên Xô cố gắng giải quyết những nhu
cầu thiết yếu của Việt Nam về lương thực,
thực phấm, xăng dầu, sắt thép…, góp phần tích cực phát triển kinh tế Việt Nam.
2. Những
mặt không thuận trong quan hệ Việt Nam – Liên Xô
Bên cạnh những biểu hiện tích cực,
thái độ của Liên Xô đối với vấn đề Việt Nam còn nhiều phức tạp. Liên Xô kiên
trì gợi ý Việt Nam hạn chế thâm nhập và bó hẹp các hoạt động quân sự ở miền
Nam, đổi lấy việc Mỹ không đem quân vào miền Nam Việt Nam. Trước sau như một,
Liên Xô chủ trương giải quyết vấn đề Việt Nam bằng thương lượng, thông qua vai
trò trung gian của mình, mà điều kiện đưa ra là thấp hơn so với yêu cầu của
Việt Nam. Từ tháng 2-1965, Liên Xô đã đưa ra gợi ý triệu tập một Hội nghị quốc
tế về Đông Dương do Liên Xô làm chủ tịch, theo mô thức của Hội nghị Geneve;
trên tinh thần ấy, Liên Xô đã vận động các nước hữu quan như Anh, Pháp,
Campuchia, Ấn Độ, Miến Điện…ủng hộ quan điểm của Liên Xô. Sau khi bị Việt Nam
khước từ với lý do là điều kiện chưa chín muồi, Liên Xô đã chuyển sang hình
thức truyền đạt cho Việt Nam ý kiến của các nước muốn làm trung gian cho Mỹ,
hoặc của chính Mỹ cho tới năm 1973. Trong những năm 1967-1968 và trong năm 1972,
khi Việt Nam, Mỹ đã ngồi vào bàn thương lượng và khi khả năng đi đến giải pháp
đã thành hiện thực, Liên Xô liên tục, vận động Việt Nam thương lương trên những
điều kiện thấp (cho rằng, Việt Nam đòi Mỹ chấm dứt đánh phá “không điều kiện”
là không thực tế; muốn Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của Mỹ trên nguyên tắc “có
đi, có lại” – nghĩa là Việt Nam chấm dứt chiến đấu và rút quân ra khỏi miền
Nam…). Liên Xô cũng chủ trương giải quyết vấn đề ngừng ném bom miền Bắc trước,
vấn đề miền Nam sau; giải quyết vấn đề quân sự miền Nam trước, vấn đề chính trị
sau. Cũng trong những năm 1967-1968, Liên Xô liên tục đề nghị Việt Nam nói
chuyện với chính quyền Sài Gòn và tỏ ý không hài lòng khi Việt Nam từ chối.
Cũng chính vì lý do đó mà Liên Xô có phần chậm chễ trong việc công nhận Mặt
trận DTGPMNVN và Chính phủ CMLTMNVN là đại diện chân chính, duy nhất của nhân
dân Việt Nam. Đóng vai trò trung gian không chính thức từ khi nổ ra cuộc chiến
tranh đến khi ký Hiệp định Paris, Liên Xô đã nhiều lần gợi ý để Mỹ và Việt Nam
gặp nhau hoặc ở Matxcơva, hoặc trên tàu chiến của Liên Xô, hoặc tại Đại sứ quan
Liên Xô ở Paris. Liên Xô cũng không ngừng yêu cầu
Việt Nam cho biết lập trường và nội dung các giải pháp của các cuộc đàm phán.
Tháng 3-1970, khi tình hình
Campuchia căng thẳng, Liên Xô đã hai lần yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi
Campuchia. Tháng 4-1972, nhân chuyến thăm Việt Nam, Kotuchov một lần nữa lại
thể hiện quan điểm giải quyết vấn đề quân sự ở miền Nam trước, “còn các vấn đề
chính trị, ta tiếp tục đấu tranh đòi nói giải quyết theo lập trường của ta”
[12]. Về hình thức thương lượng, năm 1972, khi Mỹ muốn họp bí mật trước, họp
công khai sau, Liên Xô cũng muốn Việt Nam chấp thuận. Tháng 10-1972, Liên Xô
vận động Việt Nam hoãn việc ký Dự thảo hiệp định đã được hoàn tất.
Từ sau khi Hiệp định Paris được ký
kết (1-1973), không muốn để chiến tranh Việt Nam bùng nổ, Liên Xô muốn duy trì
“nguyên trạng” đã đạt được bởi Hiệp định Paris, giữ nguyên hai vùng kiểm soát,
hai chính quyền và ba lực lượng chính trị (trong đó Liên Xô có quan hệ với cả
ba bên). Có thể nhận thấy rằng, sau Hiệp định Paris, thái độ của Liên Xô đối
với việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam là không thuận, Liên Xô muốn Việt Nam hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam bằng con đường chính trị, không ủng hộ Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền
Nam Việt Nam.
3. Bàn về
quan hệ Việt Nam – Liên Xô dưới tác động của tam giác chiến lược Mỹ - Xô -
Trung
Có thể nói
rằng, trong quan hệ Việt – Xô, tình thân, sự hợp tác hữu nghị và mâu thuẫn, thậm
chí bất đồng là hai mặt thường trực của mối quan hệ và thay đổi theo từng thời
điểm nhất định. Trước tiên, phải nhận thức rằng, đây
là điều hết sức bình thường và có thể hiểu được trong quan hệ quốc tế, trong
quan hệ giữa các quốc gia, kể cả các quốc gia cùng ý thức hệ. Tính hai mặt này
có thể lý giải bằng hàng loạt lý do và nguyên nhân: Lợi ích chiến lược toàn cầu
của Liên Xô; sự thay đổi chính sách đối với Việt Nam của Mỹ; Trung Quốc và Liên
Xô cạnh tranh ngôi vị trong phong trào cách mạng thế giới. Do đó, ba yếu tố Mỹ,
Liên Xô, Trung Quốc và quan hệ tam giác giữa các cường quốc này ảnh hưởng không
nhỏ tới quan hệ Việt Nam – Liên Xô. Và vì vậy, cần nghiên cứu một cách thích
đáng sự tác động của quan hệ tam giác Mỹ - Xô - Trung đối với quan hệ Việt Nam – Liên Xô theo hai chiều hướng tích cực và tiêu
cực.
Từ năm 1965
đến năm 1975, quan hệ Xô - Trung tiếp tục giảm sút một cách nghiêm trọng. Các
nhà lãnh đạo hai nước chính thức kêu gọi quân và dân sẵn sàng bảo vệ biên giới
của nước mình. Sự căng thẳng của quan hệ Xô - Trung, đặc biệt là xung đột biên
giới nổ ra nhiều lần trong năm 1969 đã dẫn tới sự đối địch giữa hai nước lớn
trong thời gian sau đó. Trong tình hình quan hệ với Trung Quốc ngày càng xấu
đi, Liên Xô tỏ rõ thái độ ủng hộ Việt Nam chống Mỹ để cô lập Trung Quốc và phá
hoà hoãn Mỹ - Trung đang có những dấu hiệu khởi động và “chỉ có như vậy, mới có
thể thực hiện thế bao vây chiến lược toàn diện đối với Trung Quốc để đảm bảo
cho Liên Xô không ở vào thế hết sức bị động sau khi Trung - Mỹ tiến hành hoà
giải” [13]. Ủng hộ Việt Nam, nắm được vấn đề
Việt Nam là một đảm bảo cho Liên Xô trong việc đạt tới ngôi vị số một so với
Trung quốc trong phong trào cách mạnh thế giới. Mặt khác, khi mâu thuẫn Xô -
Trung càng sâu sắc, trong nhiều thời điểm, Liên Xô cũng nghi ngờ Việt Nam ngả
theo Trung Quốc chống Liên Xô. Điều này càng làm cho Liên Xô ý thức hơn việc
củng cố quan hệ với Việt Nam, lôi kéo Việt Nam chống Trung Quốc.
Quan
hệ Mỹ - Xô từ năm 1965 đến năm 1972 cũng không phát triển tốt đẹp như trước
nữa. Những điểm chung trong quan hệ Xô - Mỹ ngày càng ít dần. Quan hệ hai nước
có những căng thẳng mới. Tình trạng này kéo dài cho tới cuộc đi thăm Liên Xô
của Tổng thống Mỹ Nicxơn (5-1972) mới dịu đi. Chính vì thế, Đảng và Chính phủ
Liên Xô chuyển sang mở rộng và củng cố ảnh hưởng đối với các nước, ngăn chặn sự
bành trướng của Mỹ trên thế giới và củng cố vị trí của mình, tạo thế cân bằng
với Mỹ. Với mục đích đó, Liên Xô viện trợ ngày nhiều hơn cho Việt Nam; đồng
thời, tỏ rõ thái độ phê phán và lên án Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Mặt khác, trong chiều hướng quan hệ hai nước không mấy mặn mà, Ban lãnh đạo mới
của Liên Xô vẫn muốn duy trì và tăng cường quan hệ Xô - Mỹ. Từ năm 1965-1969,
“Xô - Mỹ đã có chín thoả thuận về các quan hệ tay đôi” [14]. Điều này lý giải những biểu hiện không thuận trong
quan hệ Việt Nam – Liên Xô những năm 1967-1968. Từ năm 1972 trở đi, do muốn phá
hoà hoãn Mỹ – Trung và thực hiện hoà hoãn Xô - Mỹ, nên sự ủng hộ của Liên Xô
đối với Việt Nam bên cạnh mặt tích cực, có phần nào giảm đi, thể hiện qua việc
Liên Xô muốn Việt Nam “giữ nguyên trạng” theo Hiệp định Paris.
Nhưng biến động lớn trong những năm
1965-1975 là sự thay đổi chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc và sự gần gũi của
Trung Quốc với Mỹ sau những năm dài thù địch. Cả Mỹ và Trung Quốc đều có ý đồ
xích lại gần nhau. Bất đồng và xung đột Xô - Trung là một trong những lý do dẫn
đến sự thay đổi của sự đối đầu Trung - Mỹ. Ngay từ năm 1968, khi cuộc chiến
tranh Việt Nam đẩy Mỹ vào thế bất lợi, Mỹ đã chú ý đến thái độ của Trung Quốc trong
vấn đề này. Tất cả những sự kiện đó làm cho làm cho cả Mỹ và Trung Quốc bắt đầu
tìm kiếm khả năng hoà hoãn giữa hai nước. Chuyến đi bí mật (7-1971) của
H.Kitxinhgơ, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ và công khai của Tổng
thống Nicxơn (2-1972) tới Trung Quốc đã mở ra một thời kỳ mới giữa hai nước.
Quan hệ Mỹ - Trung được thiết lập sau nhiều năm đối đầu. Sự xích lại gần nhau
giữa Mỹ và Trung Quốc là một biến động quốc tế lớn nhất trong quan hệ giữa ba
nước Liên Xô - Mỹ - Trung Quốc. Việc Mỹ và Trung Quốc bắt tay nhau, theo đánh
giá của H.Kitxinhgơ “đã làm biến đổi cấu trúc chính trị quốc tế”. Thủ tướng Chu
Ân Lai cũng cho rằng, sự kiện này làm cho “thế giới bị rung chuyển”. Quan hệ Mỹ
- Trung được thiết lập đã tạo ra một quan hệ tam giác có tính chất chiến lược
giữa ba nước lớn Mỹ - Liên Xô - Trung Quốc, mà H. Kitxinhgơgọi đó là “trò chơi
ba chiều”. Quan hệ Trung - Mỹ buộc Liên Xô phải điều chỉnh chính sách đối
ngoại của mình, trước hết là với Mỹ. Trong hoà hoãn Trung – Mỹ, Liên Xô nhìn
thấy ở đó hiểm hoạ của sự câu kết chống Liên Xô. Mục đích của Liên Xô là phải
phá hoà hoãn Trung – Mỹ; đồng thời, khi quan hệ Xô - Trung bị tan vỡ hoàn toàn
và khả năng Mỹ bại trận, rút khỏi Việt Nam để lại khoảng trống quyền lực ở Đông
Nam Á, Liên Xô muốn duy trì sự kiểm soát của mình vùng này ở thông qua Việt
Nam. Những tính toán này là một lý giải thuyết phục cho tính hai mặt trong quan
hệ Xô - Việt thời kỳ này.
4. Kết luận
Sau khi phân tích quan hệ giữa Việt
Nam và Liên Xô trong những năm 1965-1975, phải khẳng định rằng ảnh hưởng của
mối quan hệ tới tiến trình lịch sử mỗi nước, đặc biệt là với Việt Nam là rất
lớn. Đây là quan hệ giữa hai nhà nước có cùng một hệ tư tưởng, là mối quan hệ
tác động hai chiều, qua đó mỗi bên đều tìm thấy những lợi ích thiết thực cho mình.
Những giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập
là rất to lớn cả về mặt vật chất và tinh thần. Liên Xô là nguồn động viên,
khích lệ, thế dựa cho cách mạng Việt Nam; mặt khác, đối với Liên Xô, Việt Nam
có những đóng góp nhất định cho sự tồn tại ổn định của đất nước Xô-viết. Việc
Việt Nam từng bước đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ đã tạo điều kiện cho
Liên Xô đối thoại với các nước thế giới tư bản. Hơn thế, cuộc chiến tranh Việt
Nam đã làm Mỹ tiêu hao rất nhiều nhân lực và vật lực, dẫn đến địa vị của Mỹ
trên trường quốc tế có phần tụt giảm. Ngược lại, khi Mỹ bị sa lầy trong chiến
tranh Việt Nam, Liên Xô lại tăng nhanh thực lực của mình, đặc biệt là nhanh
chóng phát triển quân sự. Đến cuối thập kỷ 60 - đầu thập kỷ 70 (XX), cuối cùng
Liên Xô đã giành được địa vị ngang bằng với Mỹ. Trong so sánh lực lượng Mỹ - Xô
đã có sự thay đổi không có lợi cho Mỹ; trên cơ sở đó, Liên Xô lợi dụng sự suy
yếu của Mỹ, nhanh chóng tăng cường ảnh hưởng vào các khu vực Trung Đông, châu
Phi, Nam Á, Trung Mỹ. Như vậy, đây là mối quan hệ dựa trên cơ sở lợi ích riêng
của mỗi bên trong sự kết hợp với lợi ích chung mang tính phe phái, ý thức hệ.
Ngoài ra, quan hệ tam giác Mỹ – Xô- Trung – quan hệ giữa một bên là kẻ thù chủ
yếu và một bên là đồng minh chiến lược của Việt Nam diễn biến hết sức phức tạp.
Sự bất đồng Xô - Trung ngày càng sâu sắc, sự hoà hoãn, xích lại gần nhau giữa
Liên Xô – Mỹ và Trung Quốc – Mỹ đã tác động trực tiếp đến quan hệ Việt
Nam - Liên Xô theo hai chiều hướng: Tích cực và tiêu cực. Sự vận động của tam
giác Mỹ – Xô - Trung trong những năm diễn ra cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân Việt Nam phản ánh một hiện thực điển hình trong quan hệ chính
trị quốc tế thời kỳ Chiến tranh lạnh, khi mỗi nước đều theo đuổi những mục đích
quốc gia riêng, nhưng lại chịu sự chi phối nhất định của lợi ích phe
phái và ý thức hệ
Hiện nay, các nước trên thế giới (dù
có chung hệ tư tưởng hay không) đang bị chi phối bởi quá trình hội nhập quốc
tế. Các nước, đặc biệt là các nước nhỏ đang tìm kiếm những hình thức mới trong
quan hệ hợp tác, nhằm đạt tới sự bình đẳng, trên cơ sở tôn trọng quyền lợi của
nhau, mang lại hiệu quả thiết thực cho lợi ích quốc gia dân tộc. Câu chuyện cũ
tiếp tục minh chứng cho một định đề: Ngoại giao là tấm gương phản chiếu sự
thịnh, suy, yếu, mạnh của mỗi quốc gia trong mối quan hệ tương tác các lợi ích,
trí và lực. Do vậy, muốn đạt tới quan hệ bình đẳng trong một ván cờ ngoại giao,
trước hết phải tự củng cố, xây dựng thực lực của đất nước, đặt mình vào trong
sự chuyển động của các mối quan hệ quốc tế, vận động cùng thế cục.
Download
toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC
CHÚ THÍCH
[1]Với sự giúp đỡ Inđônêxia 367.5 triệu rúp
và Ấn Độ 1.5 tỉ rúp, thì sự giúp đỡ của Liên Xô cho Việt Nam còn rất
khiêm tốn.
[2] Hội
nghị đã thông qua nhiều vấn đề quan trọng về đường lối cách mạng Việt Nam và
một số vấn đề về quốc tế, trong đó có chủ trương phải thắng Mỹ trong chiến
tranh đặc biệt và “chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”.
[3] Gaiđuk. V.I (1998), Liên bang Xô-viết
và chiến tranh Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 53.
[4] Ngoại giao Việt Nam (1945-2000)
(2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội., tr. 235.
[5] Lịch sử chính sách đối ngoại của Liên
Xô (1945-1970) (1971), Nxb Khoa học, Matxcơva, bản lưu tại Viện Sử học, tr.
52
[6] Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Sđd.
[7] Sự thật về những lần xuất quân của
Trung Quốc và quan hệ Việt- Trung, Nxb Đà Nẵng, 1996, tr 73.
[8] Gaiđuk.
V.I (1998), Sđd, tr. 126.
[9] Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Sđd.
[10] Việt
Nam- Liên Xô 30 năm quan hệ (1950-1980) (1980), Nxb Ngoại giao, Hà Nội, tr.
139.
[1][11] Gaiđuk. V.I (1998), Sđd , tr. 125.
[12] Quan hệ Việt – Xô trong giai đoạn
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bản lưu tại Văn phòng lưu trữ Trung ương
Đảng, tr. 30.
[13] Lý Đan Tuệ (2000), “Xung đột và mâu
thuẫn Trung Quốc –Liên Xô trong vấn đề viện trợ cho Việt Nam chống Mỹ”, Tạp
chí Nghiên cứu Liên Xô Trung Quốc đương đại, số 3, tài liệu dịch từ tiếng Trung
Quốc, lưu tại Viện Sử học, tr.1.
[14] Quan hệ Việt – Xô trong giai đoạn
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Sđd, tr.35.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!