Nguyễn Thị Mai Hoa
Chiến tranh Việt
–Trung (1979) là một cuộc chiến tranh hạn chế về không gian và thời gian giữa
hai nước XHCN mà ẩn đằng sau nó là hai trục XHCN (Bắc Kinh – Phnompenh; Hà Nội –
Moscow). Sở dĩ liên quan đến cuộc chiến có “hai trục XHCN” là bởi hai nước trực
tiếp tham chiến đều phải dàn lực ra hai hướng (dù mức độ có khác nhau), tính đến
mối đe dọa từ hai phía đều là những lực lượng trong cùng phe XHCN: Trung Quốc tấn
công Việt Nam nhưng luôn nghe ngóng phản ứng của Liên Xô; Việt Nam chống trả
Trung Quốc song vẫn phải tiếp tục đối phó với Khơme đỏ ở phía Tây Nam. Nói cách
khác, liên quan đến cuộc chiến tranh Trung –Việt (1979) xuất hiện “một tam giác cấp vùng bao gồm Campuchia, Việt Nam và Trung
Quốc và một tam giác liên lục địa bao gồm Việt Nam, Trung Quốc và Liên bang Xô
viết”[1]. Rút từ hai
loại hình tam giác đó và xung quanh chúng tồn tại, xuất hiện, dao động hàng loạt
các yếu tố ngoại lai khác nhau với sự ảnh hưởng, tác động trên nhiều tầm mức và
tầng nấc đa dạng, có ý nghĩa trực tiếp và gián tiếp.
1- Yếu tố Liên Xô
Là hai nước XHCN cùng
chung ý thức hệ và tuyên bố ủng hộ cũng như tuân thủ nguyên tắc quan hệ kiểu mới
trên nền tảng đoàn kết quốc tế, song quan hệ giữa Trung Quốc - Liên Xô sớm xuất
hiện những rạn nứt, những bất đồng về quan điểm, đường lối, về lợi ích quốc gia.
Đến thập niên 50-60 (XX), quan hệ Xô - Trung xấu đi một cách nghiêm trọng, giữa hai nước diễn ra hàng loạt sự kiện bất ổn khiến nhiều
người đã tiên đoán về một cuộc chiến tranh không tránh khỏi. Quan hệ Xô - Trung
mang tính chất thù địch rõ rệt và sau một loạt bất đồng về tư tưởng, xung đột về
lợi ích quốc gia, quan hệ Trung - Xô rơi chạm đáy. Ở vào bối cảnh quan hệ
với Liên Xô rơi vào “điểm chết”, coi Liên Xô là “kẻ thù số một” còn nguy hiểm
hơn cả Mỹ, Trung Quốc không ngừng tập hợp lực lượng, tuyên truyền, vận động chống
Liên Xô, vận động Việt Nam ngả theo Trung Quốc, phục
vụ mục tiêu mở rộng vùng ảnh hưởng.
Trong cuộc
chạy đua gia tăng vị thế ở khu vực châu Á và Đông Nam Á, Liên Xô –Trung Quốc cạnh
tranh quyết liệt. Mối quan tâm của Trung Quốc tập trung vào hai điểm lớn: 1-Kiềm
chế Việt Nam, giữ Việt Nam trong quỹ đạo của mình; 2- Ngăn chặn Liên Xô, phá thế gọng kìm bao vây
Trung Quốc.
Về phía
Liên Xô, quan
tâm của Liên Xô đối với Đông Nam Á gia tăng từ năm 1965 và trở nên mạnh mẽ hơn
sau khi Mỹ rút khỏi Việt Nam (1973). Chủ trương mở rộng sự hiện diện trên thế
giới, Liên Xô đã tiếp cận được hàng loạt các căn cứ quan trọng về địa chính trị
- quân sự tại các khu vực trọng yếu (cảng Berbera, Somali, 1975, cảng Massaua,
Etiopia, 1977 và cảng Aden, Nam Yemen…). Các vị trí chiến lược này cho phép
Liên Xô kiểm soát những tuyến đường hàng hải huyết mạch, tạo điều kiện cân bằng
sức mạnh hải quân với Mỹ trên phạm vi toàn cầu. Việc Liên Xô đặt chân vào cảng
Cam ranh thông qua Hiệp ước Hữu nghị và Hợp
tác Việt – Xô (11-1978), một mặt, củng cố, mở rộng phạm vi hoạt động của
Liên Xô; mặt khác, khiến quan hệ Việt – Trung trượt dài thêm một bước. Trung Quốc
phản ứng quyết liệt trước nguy cơ bị bao vây ở cả hai phía, đẩy mạnh các động
thái chính trị - ngoại giao, tranh thủ các nước ASEAN, bình thường hóa quan hệ
với Mỹ, và tranh thủ Nhật Bản, chuẩn bị từng bước “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Đặng Tiểu Bình lý giải một trong ba lý do lớn để “trận này nhất định phải đánh” như sau:
“Hành động này không đơn thuần là chỉ để bảo vệ biên giới, nó liên quan đến
tình hình Đông Dương, cục diện Đông Nam Á, nói rộng hơn là liên quan đến cục diện
thế giới” và “nếu chúng ta không đánh trả thì Việt Nam sẽ ngày càng trở nên
kiêu ngạo,
thúc đẩy phương Bắc lấn tới” trong khi “Liên Xô đã có mặt ở Afghanistan, Iran và tiếp
đến là ở Việt Nam, gia tăng mối đe dọa đối với chúng ta từ phía Đông, do vậy,
chúng ta cần phải đánh Việt Nam”[2]. Trung Quốc phân tích: “Đông
Dương là một trạm trung chuyển nối giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, nếu
Liên Xô có chỗ đứng chân ở Đông Dương, thì phía Tây sẽ có thể ra vào eo biển
Malacca, qua Ấn Độ Dương đến thẳng Biển Đỏ; ở phía Đông có thể tung hoành trên
Thái Bình Dương, ở phía Nam có thể đi đến Đại Tây Dương. Như thế, Liên Xô không
những sẽ kiểm soát được tuyến đường hàng hải chuyên chở dầu lửa quan trọng Tây
Âu, Mỹ, Nhật, đồng thời còn hình thành một vòng bao vây hình cung chiến lược”[3]. Như vậy, ám ảnh bởi sự cạnh
tranh và những nguy cơ từ sự trỗi dậy của Liên Xô, Trung Quốc đã lồng vào quyết
định đánh Việt Nam mục tiêu kiềm chế và dằn mặt Liên Xô.
Quyết định đánh Việt Nam, Trung Quốc tiến hành
một cuộc chiến với quy mô hạn chế do không thể không tính đến phản ứng của Liên
Xô. Dù có phần lo ngại về khả năng Liên Xô có thể can thiệp để bảo vệ Việt Nam,
song Trung Quốc đã dự đoán phản ứng của Liên Xô đối với cuộc tấn công này sẽ
không mạnh mẽ, nếu có chăng chỉ là những cuộc quấy rối nhỏ mà Trung Quốc dư sức
khống chế. Bắc Kinh nhận định: “Liên Xô nhiều nhất chỉ có thể phát động cuộc tấn
công với mười sư đoàn và Trung Quốc không cần thiết phải điều động lực lượng
quân đội từ các khu vực khác đến cũng đã có thể ngăn chặn”[4]. Đặng Tiểu Bình xác định
Liên Xô “sẽ không tổ chức cuộc tác chiến với quy mô lớn, nhưng nếu họ có hành động
thực sự thì chúng tôi cũng sớm có chuẩn bị thỏa đáng”[5]. Sở dĩ Trung Quốc tự tin
trong các tính toán và hành động là bởi: Một
là, Trung Quốc đã “rào dậu” kỹ càng về ngoại giao với hai đối tác quan trọng
là Mỹ, Nhật trên cơ sở liên minh “chống chủ nghĩa bá quyền”; hai là, chuẩn bị dư luận thế giới về một
cuộc “phản kích tự vệ” đuổi quân Việt Nam ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc; ba là, tiếp tục những cuộc hội đàm thường lệ với Liên Xô về vấn đề
biên giới, tỏ rõ cho Liên Xô biết cuộc tấn công Việt Nam là một vấn đề riêng biệt,
không ảnh hưởng đến việc cải thiện quan hệ giữa hai nước; bốn là, nắm bắt nhu cầu của Liên Xô trong “đàm phán hạn chế
vũ khí hạt nhân lần thứ hai” với Mỹ - nhu cầu ấy không cho phép Liên Xô mạo hiểm
phá vỡ mối quan hệ Mỹ - Xô. Tóm lại, Trung Quốc tin rằng “những hoạt động ngoại giao dồn dập, có kết quả đã tăng thêm
đáng kể uy tín của Trung Quốc đối với các nước và đã làm cho Trung Quốc có thể
giành được cảm tình, sự ủng hộ thêm của nhiều nước”[6], Liên Xô
tất yếu không thể không cân nhắc tình hình này.
Dù đã tính toán chặt
chẽ như vậy, song trước khi bắt đầu cuộc chiến tranh “trừng phạt Việt Nam”,
Trung Quốc đã dời hơn 30 vạn dân thường ra khỏi khu vực biên giới Trung – Xô và
tất cả mặt trận phía biên giới với Liên Xô đều nằm trong trạng thái báo động cấp
cao nhất[7].
2- Yếu tố Campuchia
Bất chấp liên minh
đoàn kết chiến đấu khá chặt chẽ trong
cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, sau khi giải phóng Campuchia, vừa vào
Phnôm Pênh, tập đoàn Pôn Pốt đã đưa ra một Chỉ thị tám điểm, trong
đó có một nội dung về trục xuất Việt kiều và tăng cường quân đội ở biên giới
với Việt Nam. Chỉ trong vòng ba tháng, gần 200.000 Việt kiều ở Campuchia bị
cưỡng bách hồi hương; đồng thời, tập đoàn Pôn Pốt - Iêngxari tiến hành các cuộc xâm lấn, đánh chiếm biên
giới Việt Nam liên tục trong thời gian dài với cường độ gia tăng. Ngày
21-12-1978, Polpot sử dụng 10 sư đoàn, mở chiến dịch tiến công trên toàn tuyến
biên giới phía Nam Việt Nam. Ngày 23-12-1978, Quân đội nhân dân Việt Nam tiến
hành cuộc phản công chiến lược. Đáp ứng yêu cầu của Mặt trận đoàn kết dân tộc
cứu nước Campuchia, ngày 26-12-1978, Quân đội nhân dân Việt Nam đưa quân vào
Campuchia, xóa bỏ
chế độ diệt chủng, giải phóng toàn bộ đất nước Campuchia.
Nhận xét về sự kiện này, nhà
nghiên cứu Ramesh Thakur viết: “Bắc
Kinh đã nhìn biến cố đó không phải với tư cách giải phóng nhân dân Campuchia, mà
nhìn nó như việc hoàn tất sự theo đuổi của Việt Nam từ năm 1930 về một Liên bang
Đông Dương dưới sự thống trị của Hà Nội”[8]. Ngày 16-1-1979, trong một cuộc họp kín mang tính
nội bộ, Cảnh Tiêu, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc giải thích việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia như sau: “Ngay từ
trước ngày giải phóng miền Nam Việt Nam, Việt Nam đã có những ý đồ xấu xa. Việt
Nam luôn muốn xâm chiếm Campuchia, kéo Campuchia vào cái gọi là "Liên minh
Đông Dương", biến nó thành bàn đạp và căn cứ của đế quốc xã hội trong mưu
đồ thực hiện kế hoạch chiến lược toàn cầu và bành trướng xuống Đông Nam Á”[9]. Cảnh Tiêu tuyên bố: “Việt Nam sẽ thấy
rằng cái mà chúng giành được hiện nay không phải là một chiến thắng mà là bắt đầu
của một thất bại”[10].
Coi Campuchia là một mắt xích quan trọng
phục vụ việc tạo vùng ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á, đóng vai trò trung tâm “trong chiến lược của Trung Quốc, nhằm
bao vây ảnh hưởng của Việt Nam"[11], Trung Quốc đã không thể bình an ngồi
nhìn “đồng
chí Pol Pot” cũng như chính phủ Campuchia dân chủ đi đến chỗ diệt vong và càng không thể cam lòng trước sự “cả gan” của Việt Nam dám đưa
quân vào Campuchia, khiến 3 vạn cố vấn Trung Quốc phải lội rừng sang Thái Lan
và khoản tiền viện trợ vừa chuyển cho Campuchia trị giá 226 triệu nhân dân
tệ (tương đương 1,5 tỷ USD) bị “rơi” vào thinh không.
Nhằm cô lập Việt Nam, Bắc Kinh đã lập tức
nhấn mạnh luận điểm “tham vọng của Hà Nội không chỉ sẽ đe dọa đến lợi ích của
Trung Quốc ở bán đảo Đông Dương mà còn đe dọa đến cả địa vị của các quốc gia
không cộng sản trong ASEAN”[12]. Bắc Kinh cường điệu sự
nguy hiểm của Việt Nam đối với Thái Lan và Malaysia.
Ngày 13-12-1978, Lý Tiên Niệm cảnh cáo Việt Nam rằng, “sự nhẫn nại của Trung Quốc
là có giới hạn và Trung Quốc không phải là một quốc gia dễ chịu để bắt nạt”[13]. Ngày 30-12-1978, Nhân dân nhật báo nhắc nhở các quốc gia
ASEAN cần đề cao cảnh giác với Cuba phương Đông và chủ nghĩa bá quyền Liên Xô,
phân tích ý đồ Liên Xô lợi dụng Việt Nam làm tay chân thâu tóm Đông Dương, kiểm
soát Đông Nam Á, châu Á – Thái Bình Dương, đẩy Mỹ và các lực lượng thân Mỹ ra
khỏi khu vực này. Tờ báo khẳng định: “Chính vì có sự đồng lõa của Việt Nam nên
Liên Xô mới có thể chen chân vào châu Á, lợi dụng người châu Á đánh người châu
Á, thực hiện những bước đi xâm lược bành trướng của họ. Vai trò của Việt Nam
trong chiến lược châu Á của Liên Xô còn to lớn hơn cả vai trò Cuba ở châu Phi”[14].
Ít ngày trước chuyến
xuất ngoại của Đặng Tiểu Bình sang Mỹ, Nhân
dân nhật báo có bài xã luận, trong đó viết: “Đế quốc xã hội Liên Xô mượn
tay người để hoành hành thiên hạ thực là mộng tưởng của kẻ ngu si, họ không thể
ngăn cản nổi trào lưu lịch sử chống bá quyền của nhân dân thế giới, lịch sử sẽ
cho kẻ xâm lược sự trừng phạt thích đáng”[15]. Tiếp đó, Nhân dân nhật báo kêu gọi thế giới “hãy
đoàn kết lại, cùng ra sức giữ gìn hòa bình và ổn định ở châu Á và thế giới!”[16]. Có vẻ như thông điệp cảnh
báo đã được phát đi. Vấn đề còn lại chỉ còn là ngày giờ và thể thức hiện thực
hóa thông điệp ấy mà thôi.
3- Một số yếu tố khác
Tháng 1-1979, sự kiện
Việt Nam đưa quân vào Campuchia đã làm đảo lộn mọi suy nghĩ, tính toán của các
nước trong và ngoài khu vực. Các nước ASEAN đứng trước những tình thế và sự cân
nhắc đầy khó khăn nhất là khi Mỹ đã không còn ở Đông Nam Á tạo ra một khoảng trống
quyền lực tại khu vực. Điều trớ trêu là câu chuyện “hiệu ứng Đôminô” một lần nữa
lại trở lại nhưng bây giờ đã trên những tính toán và bình diện khác. Một số nước
ASEAN có xu thế co cụm lại và có ý cảnh giác trước “nguy cơ Việt Nam” mặc dầu để
trấn an, từ rất sớm (1-1976), Việt
Nam đã luôn khẳng định mục tiêu “phấn
đấu cho một Đông Nam Á độc lập, hòa bình, trung lập”[17],
thể hiện thiện trí hợp tác của Việt Nam với các nước trong khu vực nói chung và
với các nước ASEAN nói riêng. Tháng 7-1976, với mong muốn thâm nhập sâu hơn vào
khu vực, thay mặt nước CHXHCN Việt Nam, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh nêu
Chính sách 4 điểm đối với các nước Đông Nam Á phù hợp với những nguyên tắc của Hiệp ước Bali[18]. Tháng 12-1976, tại Đại hội IV, Đảng, Nhà nước Việt
Nam làm rõ thêm quan điểm trong quan hệ với các nước ASEAN: "Sẵn sang thiết
lập và phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực này
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi,
cùng tồn tại trong hòa bình"[19].
Nhờ những nỗ lực nêu trên, quan hệ của Việt Nam với các nước thành viên ASEAN đang tiến tới những khởi đầu mới,
tuy nhiên, "sự kiện Campuchia”
đã làm đảo lộn tất cả. Các nước trong khu vực đều có chung quan điểm rằng việc
Việt Nam đưa quân tình nguyện vào Campuchia là có sự hậu thuẫn của Liên Xô, là
bước lấn tới của Việt Nam trong quá trình thực hiện ý đồ thành lập Liên bang
Đông Dương, bành trướng thế lực ra toàn khu vực Đông Nam Á. Thực tế quân đội Việt
Nam đối mặt với quân đội Thái Lan tại vùng biên giới Thái Lan – Campuchia vào
năm 1979 càng củng cố thêm nhận thức đó của ASEAN. Bên cạnh đó, hoạt động tuyên truyền của Trung Quốc về
“đại bá Liên Xô” và “tiểu bá Việt Nam” đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý những nước
này. Việc ký Hiệp ước Hợp tác, hữu nghị Việt – Xô (12-1978) và sự kiện Liên Xô
đưa quân vào Afghanistan (12-1979), Liên Xô tăng cường sự hiện diện ở châu Phi
thông qua sự giúp đỡ quân sự của Cuba cho một số nước ở châu lục này… càng khiến
cho các lập luận của Trung Quốc thêm phần thuyết phục. Nỗi lo sợ về “sự bành
trướng” của Việt Nam trong khu vực lại trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều
nước. Kết quả là các nước ASEAN yêu cầu Hội đồng Bảo
an lên án Việt Nam xâm lược Campuchia, vận động Đại hội đồng Liên Hợp Quốc,
phong trào Không liên kết giữ ghế cho Khơme đỏ. Trong các nước ASEAN, Thái Lan là nước phản ứng mạnh mẽ
nhất, bởi là láng giềng gần gũi của Campuchia, đang tiếp tay cho tàn quân
Polpot, Thái Lan lo sợ Việt Nam “trả đũa”, đánh sang đất Thái Lan. Hơn thế, Trung Quốc đã kịp làm yên lòng Thái Lan bằng
hứa hẹn ngăn chặn một cuộc tấn công Thái Lan từ phía Việt Nam bằng cuộc chiến
chống Việt Nam. Lý Quang Diệu nhớ lại: “Năm 1980, tại Bắc Kinh, Triệu Tử Dương
đã giải thích cho tôi rõ rằng cuộc phản công tự vệ chống lại Việt Nam năm 1979
của Trung Quốc đã buộc Việt Nam phải duy trì 60% quân đội của họ dọc biên giới
với Trung Quốc. Theo Triệu Tử Dương, nếu số quân này được đưa vào chiến đấu ở
Campuchia thì hội nghị quốc tế tới sẽ phải bàn giải pháp hòa bình cho vấn đề
Thái Lan chứ không phải Campuchia”[20].
Để trấn an các nước
ASEAN, Trung Quốc luôn khẳng định Liên Xô sẽ không can thiệp quân sự vào khu vực
nếu Trung Quốc tấn công Việt Nam. Tháng 11-1978, trong cuộc gặp gỡ Lý Quang Diệu,
Đặng Tiểu Bình đã giải thích quan điểm này như sau: “Trung Quốc không bị ảnh hưởng
bởi việc ký kết Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị Xô-Việt. Trung Quốc không ngại nếu
Việt Nam yêu cầu Liên Xô đe dọa Trung Quốc. Liên Xô không dám lôi cuốn Trung Quốc
vào cuộc chơi lớn (…) Trung Quốc sẽ buộc họ trả giá đắt cho hành động này và
Liên Xô sẽ hiểu rằng ủng hộ Việt Nam là một gánh nặng”[21]. Đảm bảo này của Trung Quốc
có sức mạnh động viên quan trọng trong điều kiện “sự bành trướng” của Liên Xô
và Việt Nam là nỗi lo lắng chung của các nước Đông Nam Á. Ngoài ra, làn sóng
người tị nạn vượt biển tràn sang các nước ASEAN cũng trở thành một tác nhân cho
sự mất lòng tin vào Việt Nam, khiến các nước này ngả dần sang Trung Quốc, bài
Việt Nam ngày một kiên quyết hơn.
Song song với các hoạt
động vận động ngoại giao nhằm hình thành nên một một tập hợp lực lượng mới chống
Việt Nam và Liên Xô, Trung Quốc có sự xoay chuyển đáng kể trong chính sách đối
ngoại với các nước trong khu vực. Trước tiên, Singapore được Trung Quốc công nhận
như một quốc gia đầy đủ và bắt đầu từ đó quan hệ hai nước phát triển nhanh
chóng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, nhất là trong “vấn đề Campuchia”.
Trung Quốc chấm dứt sự giúp đỡ đối với các Đảng cộng sản thân Trung Quốc tại
các nước Đông Nam Á, nhất là trong các hoạt động vũ trang nhằm lật đổ các chính
phủ đang cầm quyền; thừa nhận các chính phủ tư sản mà bấy lâu nay Trung Quốc vẫn
cho là tay sai của Mỹ. Một bước đi khá dứt khoát của Trung Quốc vào thời điểm
này liên quan đến Hoa kiều – “đội quân thứ năm” của Trung Quốc ở Đông Nam Á và ở
nước ngoài: Khuyến khích Hoa kiều nhập quốc tịch nước sở tại, thôi nhấn mạnh
quan hệ huyết thống giữa cộng đồng người Hoa ở các nước này với Trung Quốc; người
Hoa đang sinh sống ở nước ngoài không còn đương nhiên được coi là công dân
Trung Quốc; dỡ bỏ các đài phát thanh dành riêng cho cộng đồng người Hoa…. (mặc
dù một thời gian sau đó khi câu chuyện chiến tranh biên giới với Việt Nam tạm lặng
xuống, Trung Quốc lại làm nóng lại nhiều chính sách đã từ bỏ). Những bước đi
nêu trên góp phần dẹp bớt những nghi kỵ của các nước Đông Nam Á đối với Trung
Quốc tồn tại lâu đời nay, chuyển nó thành tấm lá chắn bảo vệ họ khỏi hai thế lực
“tiểu bá”, “đại bá” Việt Nam và Liên Xô. “Một mũi tên trúng hai đích” - Trung
Quốc đã thành công khi từ bỏ chính sách can thiệp vào các nước Đông Nam Á; thúc
đẩy quan hệ kinh tế, tranh thủ vốn từ các nước này phục vụ chiến lược “bốn hiện
đại hóa”; đồng thời, tập hợp được lực lượng chống Việt Nam. Trung Quốc đã có thể
yên tâm phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam mà không e ngại sự lên án hoặc
chống đối từ những nước có tầm ảnh hưởng trong khu vực. Trên thực tế, khi chiến
tranh biên giới Trung – Việt 1979 nổ ra, tờ Kinh tế Viễn Đông đã bình luận: “Đối
với Đông Nam Á mà nói thì không chút nghi ngờ, ở một số quốc gia nào đó đã dấy
lên một làn sóng ủng hộ Trung Quốc”[22]. Các nước ASEAN đưa ra một
đề án tại Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc yêu cầu Việt Nam rút khỏi Cămpuchia và
Trung Quốc phải rút khỏi Việt Nam – có nghĩa là trong con mắt họ, Việt Nam và
Trung Quốc được tiếp cận theo một vị thế quân bằng trong quan hệ với nước thứ
ba.
Đối với Mỹ và Nhật Bản,
tháng 8-1978, Trung Quốc ký với Nhật Hiệp ước Hữu nghị và Hòa bình, thuyết phục
Nhật Bản không viện trợ cho Việt Nam; thuyết phục lãnh đạo Mỹ từ bỏ ý định bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam (5-1978); tích cực đàm phán bình thường hóa
quan hệ với Mỹ (12-1978); thăm Mỹ, vận động ủng hộ nếu Trung Quốc phát động chiến
tranh đánh Việt Nam (1-1979). Việc bình thường hóa quan hệ Trung- Mỹ khiến
Trung Quốc đặc biệt phấn chấn: “Việc thiết thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Mỹ là một thắng lợi của
đường lối cách mạng vô sản. Nó chứng tỏ lần nữa rằng đế quốc Mỹ
thực chất chất là một con hổ giấy chứ không phải là một tấm thép”[23].
Hưởng lợi từ việc
Trung – Xô mâu thuẫn, đối địch, trong giới lãnh đạo nước Mỹ nhiều người tỏ ý đồng
tình với kế hoạch của Trung Quốc. Brzezinski
- cố vấn an ninh Tổng thống Mỹ ủng hộ Trung Quốc “dạy cho Việt Nam một
bài học” với cách thức đánh nhanh, không kéo dài[24]. Nhìn chung, các diễn tiến
ngoại giao vào nửa cuối năm 1978 là khá có lợi cho Trung Quốc, “Bắc Kinh, Tokyo,
Washington đã đạt được tới một nửa hiệp nghị khu vực Thái Bình Dương chống “bá
quyền”[25]. Quả thật, Trung Quốc khá
an tâm về thái độ những nước này trước những động thái có thể của Trung Quốc nhằm
“đặt Việt Nam vào đúng vị trí”. Cảnh Tiêu lạc quan khẳng định: “Chúng ta đã tìm cách tranh thủ được Mỹ và đã ngăn chặn có kết
quả sự mặc cả lén lút giữa Mỹ và Liên Xô, hai siêu cường đang cùng nhau chia sẻ
thế giới. Hiện nay đã hình thành một mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa bá quyền
của đế quốc xã hội bao gồm kẻ thù thứ yếu của chúng ta là Mỹ trong thế giới thứ
nhất, phần lớn các nước trong thế giới thứ hai và thế giới thứ ba. Hiện nay
Trung Quốc không bị cô lập, chỉ có Sa hoàng mới đang run sợ vì bị cô lập”[26]. Thực vậy,
Khi Trung Quốc bắt đầu xâm lược Việt Nam, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Michael
Blumenthal vẫn đi thăm Trung Quốc bình thường và tiến hành cải thiện mối quan hệ
mậu dịch Mỹ - Trung. Ngày 12-2-1979, Quốc vụ khanh Mỹ Vance nhắc nhở Đại sứ
Liên Xô Dobrynin rằng, Liên Xô không nên triển khai bố trí quân đội tại Việt
Nam. Phát biểu tại Hội
nghị tổng kết chiến tranh Trung – Việt (16-3-1979), Đặng Tiểu Bình tiết lộ một thông tin: Khi quân
đội Trung Quốc tấn công Việt Nam cũng là lúc “Hoa Kỳ đã gửi Hạm đội 7 thực hiện tuần
tra, giám sát nhằm đối trọng với Hải quân Liên Xô đang có mặt tại phía Nam biển
Nam Trung Hoa”[27].
Sau hơn một tuần, Chính phủ Mỹ mới dần thể hiện sự phản đối hành động của Trung
Quốc một cách nhẹ nhàng, phê chuẩn một chính sách mới, nhằm “làm cho ảnh hưởng
của cuộc chiến tranh này giảm tới mức thấp nhất sự trầm trọng thêm trong quan hệ
Mỹ - Xô và Mỹ - Trung; đảm bảo quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam, quân Việt Nam
rút khỏi Cămpuchia và ngăn chặn Liên Xô mở rộng cuộc xung đột”[28]. Tokyo có thái độ phản đối
cuộc chiến tranh, nhưng kiên trì ủng hộ lập trường của ASEAN, yêu cầu ngừng chiến
tranh và đề nghị quân đội nước ngoài rút khỏi Đông Dương.
* *
*
Quan hệ giữa các quốc
gia là mối quan hệ hết sức động, bị chi phối bởi những điều kiện khác nhau,
xoay chuyển, vận động không ngừng dưới tác động của các yếu tố khách quan, chủ
quan. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là một điển hình như vậy. Trong một khoảng
thời gian tương đối ngắn, từ “môi hở răng lạnh”, “vừa là đồng chí, vừa là anh
em”, Việt Nam và Trung Quốc đã trở thành những kẻ thù không đội trời chung. Cuộc
chiến tranh biên giới năm 1979 đã chính thức đặt dấu chấm hết cho lý thuyết “chủ
nghĩa quốc tế vô sản trong sáng”; đồng thời, khởi đầu một giai đoạn mới đầy phức
tạp trong quan hệ giữa các nước ở khu vực.
Sau một khoảng lùi lịch
sử, bình tĩnh nhìn nhận về cuộc chiến tranh Trung Quốc phát động chống Việt Nam,
hàng loạt những vấn đề thuộc về hoặc liên quan vẫn đang đặt ra những câu hỏi
nóng bỏng, đòi hỏi những nhìn nhận sòng phẳng, khách quan, công tâm.
Lịch sử đã qua sẽ
không lặp lại, nhưng nó có thể trở về với hiện tại trong một hình hài gần gũi.
Lịch sử không đứt đoạn, không có một nhát cắt rạch ròi giữa quá khứ - hiện tại - tương lai. Trong cuộc đối thoại bất tận giữa ngày hôm qua và ngày hôm nay, hiểu thấu những
thành công và sai lầm, con người, dân tộc dần lớn lên. Trong chuỗi logic ấy, điều
quan trọng hơn cả đó là vấn đề lợi ích dân tộc. Lịch sử có “đúng”, có “sai” và ranh giới giữa
“sai” - “đúng” nhiều khi hết sức mong manh. Thế nhưng, bước qua lằn răn mỏng mảnh
ấy là số phận con người, số phận quốc gia, dân tộc.
Chiến tranh biên giới
năm 1979 đã lùi xa, nhưng nợ máu xương vẫn còn đó. Lịch sử luôn phát xét công bằng.
Nhìn lại cuộc chiến không phải nhằm khơi lên hận thù, không để đốt cháy hiện tại,
mà để thấm thía hơn giá trị từng tấc đất tiền nhân để lại, có trách nhiệm hơn với
ngày hôm nay và tương lai.
[1] Ramesk Thakur:
Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam
War, The Australian Outlook,
Volume 34, N0 1, 1980, p. 64-74
[4] Major General Robert
N. Ginsburgh, US. A. F (Ret.): China
Touches the Tigers Bottomas, Air
force, June 1979, Vol. 62, N0. 6, pp. 44-45.
[5] David Bonavia: Chanqing the Course of History, For
Eastern Economic Review, Marche, 1979, p. 10.
[6]Keng
Piao's [Geng Biao's] Report on the Situation of the Indochinese Peninsula,” January 16,
1979, Issues and Studies 17, no. 1 (January 1981), p. 88.
[7] Harlan W. Jencks: China’s Punitive War on Vietnam Amilitary
Assessment, Asian survey August 1979, Vol. XIX, N0. 8, p. 806.
[8] Ramesh Thakur: Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and
The China-Vietnam War, The
Australian Outlook, Volume 34, N0 1, 1980, p. 69.
[11] Cuộc xung đột Trung Quốc - Việt Nam (1980),
Chuyên san, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, tr.9.
[12] Bành Mộ Nhân: Quyết
sách của Trung quốc trong cuộc Chiến tranh trừng phạt Việt Nam, Lưu tại thư viện
Quân đội, tr.83.
[13] Bành Mộ Nhân: Sđd,
tr.100.
[17] Ban Chấp hành TW Đảng
khóa V: Báo cáo, kiến nghị của Ban Đối
ngoại Trung ương về tình hình chủ trương quan hệ giữa nước ta với một số nước, 1985,
Tài liệu lưu tại kho Lưu trữ Trung ương
Đảng, tr.7.
[18]Năm 1976, tại Bali (Indoensia) đã diễn ra Hội nghị
cấp cao ASEAN lần đầu tiên. Hội nghị đã thông qua Hiệp ước thân thiện và hợp
tác, còn được gọi là Hiệp ước Bali – cơ sở pháp lý cơ bản nhất cho sự tham gia
của các quốc gia vào Hiệp hội và sự gắn kết, hợp tác trong Hiệp hội. Khi đó,
ASEAN chưa bao hàm tất cả các quốc gia trong khu vực và chưa có mối quan hệ với
các đối tác đối thoại như hiện nay.
[19] Đảng cộng sản Việt
Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà
Nội, tr.78.
[20] Lee Kuan Yew: Mmemoirs of, from Thrid World to First, The
Singapore Story: 1965-2000, Singapore Press holdings, 2000, p.377.
[21] Lee Kuan Yew: Ibid,
p.377.
[22] Bành Mộ Nhân: Sđd,
tr.127.
[23] Keng Piao's [Geng Biao's], Ibid, p. 91.
[24] Nguyễn Cơ Thạch: Chiến lược của ta đối với TrAgng Quốc,
12-1978, Lưu tại thư viện Quân đội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!