Trần Đức
Thảo[1]
quê ở làng Song Tháp, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh - một vùng mang đậm bản sắc
văn hóa truyền thống Kinh Bắc. Cái nôi văn hóa, mảnh đất quê hương “một nắng
hai sương” ấy đã sinh thành, nuôi dưỡng, ươm trồng một nhân cách khoa học – triết
gia Trần Đức Thảo, triết gia Việt Nam duy nhất được phương Tây thừa nhận có tầm
vóc quốc tế và được đánh giá là một trong những triết gia hàng đầu thế kỷ.
1- Quyết định trở về đất Mẹ
Đỗ xuất sắc
ở bậc tú tài, Trần Đức Thảo vào học Trường Luật tại Hà Nội, sau đó sang học tại
một trường lớn của nước Pháp - Trường Cao đẳng Sư phạm phố d’Ulm. Được Giáo sư
Jean Cavaillés, một người có tư tưởng chống phát xít hướng dẫn khoa học, Trần Đức
Thảo hăng say hoạt động xã hội. Cách mạng tháng Tám (1945) thành công như một
thứ men say rót vào bầu nhiệt huyết tuổi trẻ, Trần Đức Thảo viết truyền đơn, tổ
chức các cuộc họp báo để ủng hộ Việt Minh và Chính phủ Hồ Chí Minh.
Năm 1951, từ bỏ
kinh thành Paris hoa lệ, để lại đằng sau vinh quang và tương lai huy hoàng, Trần
Đức Thảo trở về Việt Nam, dấn thân vào cuộc kháng chiến dù biết rằng nó rất khó
khăn, gian khổ và không ít thử thách. Lý giải nguồn cơn cuộc tìm đường và nhận
đường, Trần Đức Thảo viết: “Phần hai của Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng
(1951) đã dẫn tôi tới một ngõ cụt và lúc đó tôi hy vọng tìm ra giải pháp trong
cách mạng Việt Nam”[2].
Sự đối kháng mạnh mẽ giữa
dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa tư bản đế quốc đã hướng Trần Đức Thảo
đến với chủ nghĩa Marx – Lenin[3], đến với “chủ nghĩa
duy vật biện chứng của K.Marx để sáng tạo lý luận giải phóng dân tộc, giải
phóng con người[4]”.
Hăm hở lên đường với tâm thế “bảo vệ một cách kiên quyết sự đúng đắn toàn vẹn, vô song của chủ
nghĩa Marx”[5], bằng
niềm tin thánh thiện được soi rọi bởi ánh sáng khoa học, Trần Đức Thảo đã đánh
cược đời mình để tìm sự trải nghiệm thực sự, học từ những đau thương của đất nước,
hi vọng đem “hiểu biết đúng” của mình khắc phục những khuynh hướng lệch lạc chớm
nở từ sau khi tư tưởng Stalin thống trị học thuyết Mác-xít, chệch với tinh thần
của K.Marx, F.Engels và V.I.Lenin.
Quyết định
trở về đất mẹ để đắm mình vào thực tế, thực hiện giấc mơ sáng tạo “một mô hình cách mạng
mà loài người mong đợi”[6]
của Trần Đức Thảo tới tận giờ vẫn gây ra những tranh
luận đa chiều: Kẻ cổ vũ, khen ngợi, người chê bai, dè bỉu… Từ góc độ một nhà
triết học, có lẽ điều đó diễn ra đơn giản, tự nhiên, ít tính toán hơn những gì
mà người ta nhìn thấy và mổ xẻ. Với Trần Đức Thảo, nghiên cứu về học thuyết
Marx, về chủ nghĩa xã hội – một mô hình xã hội chưa từng có ở đâu trên
thế giới mà chỉ ngồi giữa bộn bề sách vở, trong khung trời nhung lụa thì chẳng
bao giờ có thể tiệm cận tới chân lý. Ông muốn có những thấu cảm lịch sử, khoa học
và thực tiễn - như vậy, nhất định phải trở về nơi chiến tranh và cách mạng đang
diễn ra cuồng nhiệt không chỉ hằng ngày, hàng giờ, mà từng giây, từng phút. Nơi
đó, Trần Đức Thảo hy vọng tìm thấy một con đường cho
triết học và thực tại, đưa triết học vào cuộc sống sôi động, nóng bỏng đến độ
trần trụi, đem thực tiễn soi tỏ lý luận, gắn suy nghĩ với hành động – đó
chính là con đường dẫn ông đến với chân lý và sự thật. Có thể đó chỉ là một giấc
mơ có phần ngây thơ, nhiều ảo vọng, thiếu tính hiện thực, song đã là khát vọng,
đã là mơ ước thì con người và cao hơn nữa là con người –triết gia có quyền cởi
bỏ, chặt đứt những níu kéo hiện thực để bay lên. Biết đâu, trong chuyến du hành
cô đơn, có phần mộng mị ấy, triết gia Trần Đức Thảo sẽ
có cơ hội chinh phục và vươn tới những đỉnh cao tư tưởng.
2- Thực tại nghiệt ngã
Thế
nhưng, thực tại vốn không đơn giản. Nó díc dắc, luôn có vô số khúc quanh và những
ngả rẽ bất ngờ khiến một tư duy triết học nổi tiếng thông tuệ, có thể sáng lập
chủ nghĩa duy vật biện chứng nhân bản, nhưng lại không thể lường định hết những
khúc khuỷu, những “hố đen” dưới chân mình.
Thực hành
“công cuộc
nghiên cứu thực tại ngay ở hiện trường”[7],
Trần Đức Thảo lập tức va đập với hiện tại đắng
nghét khi dối trá, độc ác, xấu xa, sùng bái, nịnh bợ… tràn lan trong cuộc sống,
“diễn biến thành một hình thức văn minh văn hóa mang nhãn hiệu hiện đại”[8],
mà nhiều năm sau, như ông khẳng định, chưa chắc đã gột rửa được cái nếp sống
gian trá ấy. Ông nhận ra rằng tất cả những buổi học tập chính sách, chuẩn bị tư
tưởng một cách máy móc đã đẩy cán bộ và nhân dân lao vào con đường tùy tiện,
đưa nhau tới một đời sống cảnh giác bệnh hoạn, đầy thủ đoạn, đầy hận thù và
gian xảo, không ai dám thành thật để lộ suy nghĩ của mình. Con người được nhào
nặn và tự nguyện dán lên mặt mình những chiếc mặt nạ vô hồn như một phương thức
tự vệ. Sự thật phũ phàng đang thử thách một Trần Đức
Thảo có tư duy nhân bản. Trần Đức Thảo giằng
xé trước những câu hỏi trân trối: “Có thể nào cản ngăn được thứ bạo lực
thô bạo này, khi nó đang trong đà phát động với tất cả hăng say, cuồng nộ, cuồng
tín?”; “Để cái ác cứ tiếp tục phát triển như nó vẫn được khai triển trong suốt
chiều dài lịch sử?”; “Triết học còn ý nghĩa gì khi chấp nhận khoanh tay đứng
nhìn cái ác hoành hành?”[9].
Trong dòng xoáy của toan tính, của sợ hãi, của chính nghĩa và thấp hèn, cuối
cùng con người nhân bản đã chiến thắng, để trong không
khí sinh hoạt chính trị bị chi phối nặng nề bởi ý thức “đấu tranh giai cấp”, Trần Đức Thảo đã thể hiện quan điểm, bảo vệ quyền được nói
lên chính kiến, quyền được suy nghĩ độc lập.
Với niềm
tin mãnh liệt cách mạng và tự do sáng tác là hai phạm trù hoàn toàn không xa lạ,
hiểu sâu sắc rằng, “người trí thức hoạt động
văn hoá cần tự do như khí trời để thở”[10], trước không khí bức
bối áp đặt chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong lao động nghệ thuật, buộc
văn hóa phải phục tùng/phục vụ chính trị, cùng với một số văn nghệ sĩ khác, Trần
Đức Thảo đã mạnh dạn dùng ngòi bút viết lên sự thật. Hai bài viết đầy tâm huyết
của ông đăng trên báo Nhân Văn và Tạp
chí Giai Phẩm Mùa Đông đều xoay quanh
chủ đề dân chủ - tự do.
Là nhà triết học, với tư duy logic nhạy bén, thẳng thắn nhìn
vào bản chất vấn đề, Trần Đức Thảo không chỉ là một trong số ít trí thức dám nói lên tiếng
nói của lương tri, mà còn “gọi tên chỉ mặt”, nêu đích xác những “căn bệnh” trầm
kha của xã hội lúc bấy giờ như “quan liêu, giáo
điều, bè phái, sùng bái cá nhân”; “tư tưởng xa quần chúng, xa nhân dân”; “thói vô
trách nhiệm và khinh con người”; “chủ nghĩa nông dân lưu manh hoá”… Trần Đức
Thảo chỉ trích cách thức những phần tử quan liêu bè phái biến ý kiến chủ quan
thành “lập trường” bất di bất dịch, lấy thành kiến làm đường lối của lịch sử,
biến những sai lầm của họ thành bánh xe vô tình của lịch sử. Ông chua chát nhận
xét: “Một bộ máy hùng mạnh, xây dựng để diệt thù, đến lúc không thấy thù thì lại
quay về bạn, lấy bạn làm thù mà đập phá bừa bãi”[11].
Không dừng lại ở đó, Trần Đức Thảo tiến một bước xa hơn, phê phán cách thức
lãnh đạo tiếng là “theo đường lối quần chúng”, nhưng luôn “tự đặt mình trên
nhân dân”, xưng vương, xưng bá trên đầu nhân dân, đi ngược nguyên tắc lãnh đạo
là phục vụ, là không có quyền ban ơn, cưỡng bách, mệnh lệnh đối với quần chúng
nhân dân.
Từ góc độ
sáng tạo và cải biến xã hội, Trần Đức Thảo nới rộng những yếu tố “liên đới” vừa
là tiền đề, vừa là hệ quả của hoạt động cải tạo thiên nhiên, xã hội, những yếu
tố không nằm ngoài các giá trị phổ quát Chân-Thiện-Mỹ của loài người- đó là tự
do, dân chủ - gốc của gốc mọi vấn đề. Từng sống, học tập trong môi trường dân
chủ, thụ hưởng các giá trị tự do, dân chủ, hơn ai hết, Trần Đức Thảo hiểu những
giá trị ấy không bỗng nhiên mà có, “tự do không phải là cái gì có thể ban ơn”[12], nó là kết quả của
đấu tranh, của chính sự vận động sản xuất xã hội. Trần Đức Thảo phê phán những
sai lầm của tư tưởng siêu hình duy tâm vận dụng vào hoạt động chính trị - xã hội
để hạn chế, thậm chí xóa bỏ những giá trị dân chủ, tự do mà nhân dân lao động
đã dày công đấu tranh, vun đắp. Ông chỉ trích những người lo sợ rằng, mở rộng tự
do, dân chủ giai cấp tư sản sẽ “ngóc dần lên”[13].
Bàn về tự
do trong xã hội tư sản và tự do trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Trần Đức Thảo sớm
nhận ra mối liên hệ tất yếu và sự chuyển hóa giữa chúng: “Một số quyền tự do
dân chủ của xã hội tư sản, mà ngày xưa quần chúng nhân dân đã giành được do đấu
tranh chống phong kiến và tư sản, thì ngày nay vẫn là cần thiết dưới một hình
thái mới trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”[14].
Từ góc nhìn tỉnh táo ấy, Trần Đức Thảo khẳng định một số quyền tự do dân chủ của
xã hội tư sản “là cần thiết cho sự phát triển số lượng và chất lượng của chủ
nghĩa xã hội, đối lập với chủ nghĩa quan liêu tiêu cực và cuối cùng là cần thiết
cho tiến trình chuyển hóa lên chủ nghĩa cộng sản”[15].
Kêu gọi mở rộng dân chủ, thực hiện phê bình,
Trần Đức Thảo đồng thời cổ vũ “phát triển tự do
cá nhân”, thứ tự do như ông quan niệm: “Dưới chế độ cũ, căn bản nó là mơ mộng
duy tâm, làm khí cụ tinh thần cho giai cấp tư sản đi bóc lột nhân công. Nhưng
trong xã hội ta nó đã biến chất và trở thành giá trị chân chính. Cá nhân phục
tùng tập thể, nhưng tập thể cũng phải có cá nhân xây dựng và hình thức tự do
trong phạm vi pháp lý nhân dân là điều kiện để mỗi cá nhân góp phần thực sự xây
dựng tập thể”[16].
Phân tích và khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa tự do và tất yếu, Trần
Đức Thảo kết luận: Muốn sáng tạo tinh thần, muốn sống đúng với bản chất con người
thì phải có tự do, dân chủ, “phát triển tự do là
nhu cầu thiết thân đồng thời cũng là nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như
của toàn dân”[17].
Nói lên chân lý tưởng chừng như hết sức đơn giản ấy, Trần Đức Thảo đã phải hứng
chịu đòn roi phê phán, quy chụp, dập vùi, bị coi là “kẻ có mưu đồ xấu xa
về chính trị”, là “những rác rưởi của chủ nghĩa xét lại”, dụng tâm “làm
tan rã lòng tin tưởng của sinh viên vào Đảng, vào chế độ”[18].
Có thể
nói ngay rằng, tại thời điểm khi đang hết sức thịnh hành những quan niệm đặt nặng,
đặt cao cái tập thể, cái chung, xem nhẹ cái tôi, cái cá nhân, xem nhẹ tự do cá
nhân, thì Trần Đức Thảo đã trọng vọng yêu cầu hài hòa trong xây dựng và vận
hành các mối quan hệ xã hội, coi đó là bệ đỡ tạo nên sức bật cho xã hội với tư
cách một thực thể hoàn chỉnh không ngừng vận động, phát triển trên nền tảng hợp
lý của nó bao gồm các giá trị chung nhân loại. Nhãn quan triết học minh tuệ,
sâu sắc đã hình thành ở Trần Đức Thảo năng lực nhìn nhận thấu đáo nhiều vấn đề
về con người, về vai trò của con người trong xây dựng xã hội mới mà phải rất
lâu sau những nhà triết học, nhà chính trị học khối cộng sản cùng thời ông hoặc
đương đại mới có thể nhìn ra.
Không do
dự khi mổ xẻ những ung nhọt xã hội, đụng tới
căn nguyên của nó, Trần Đức Thảo đã tưởng
có thể bứt tung mọi nút thắt vô hình và hữu hình, thế nhưng còn hơn cả phũ
phàng, ông đã phải trả giá bằng những tháng ngày tận cùng của sự cô đơn và ghẻ
lạnh. Vẫn thế. Trong hành trình nhọc nhằn của nhân loại từ thủa nguyên khôi, khởi
thủy cho mãi đến ngày hôm nay, tự do chưa bao giờ là rẻ.
3- Vượt lên nghịch cảnh
Trần Đức
Thảo để lại cho hậu thế nhiều tranh luận và bàn cãi về quan điểm triết học, về những
trăn trở thế - thời, về xây dựng xã hội…Trong Encyclopedia of Phenomenology, Daniel J. Herman viết về ông đầy
trân trọng, song không thể không buông một dấu lửng: “Chân thành hy vọng rằng, Trần Đức Thảo, nhà Marxist và nhà hiện tượng học
nổi tiếng, cuối cùng, sẽ tìm thấy chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử với đầy đủ ý
nghĩa của từ này”[19].
Dù là ai, qua những phiêu lưu vào lối ngả
tư duy, trước tiên, Trần Đức Thảo là con người sáng tạo,
không ngừng sáng tạo với năng lực sáng tạo đáng kinh ngạc. Dưới ngòi bút và từ
bộ óc vĩ nhân của ông, những vấn đề triết học cứ hiện lên rờ rỡ, vừa hàn lâm,
lóng lánh, kiêu sang, vừa giản dị toát lên chất nhân bản, quấn bện giữa triết
lý và đời sống – nó giống như chính hành trình gian nan ông đã đi qua trong những
phân thân để tìm chính mình và những gì thuộc về bản ngã con người.
Vấn đề
con người vốn là một trong những chủ đề trung tâm của triết học từ sơ kỳ đến hiện
đại. Con người và chủ nghĩa nhân bản luôn là một căn cứ triết học, dựa trên đó
người ta quy chiếu, tìm hiểu và đánh giá mọi trường phái cũng như hệ tư tưởng.
Vấn đề con người bỏng rẫy trong tâm thức những nhà triết học lớn như Aristote,
Hegel, Marx, Husserl, Maurice Merleau-Ponty, Lucien Goldmann, Enzo Paci, Ludwig
Landgrebe… Nó cũng nóng bỏng không kém trong các ưu suy, ngẫm ngợi và luận giải
triết học của Trần Đức Thảo.
Là tín đồ
cổ vũ cho một học thuyết thật sự lấy con người làm gốc, các nghiên cứu về con
người của Trần Đức Thảo không dừng lại đơn thuần ở những khía cạnh vật chất
khách quan, mà “truy tìm trong cái thế
giới đã được thực hiện tất cả ý nghĩa của cuộc đời”[20] để đi đến “những phân tích hiện tượng học về
lao động tinh thần cụ thể”[21] như một tồn tại hiện thực, từ đó nhận chân
những gì thuộc về hoạt động mang tính vật chất và tinh thần trong những sản phẩm
lao động do con người tạo ra.
Nếu như K.Marx chìm vào phân tích sự tha
hoá của con người trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Husserl trầm luân đến đánh mất lý tính trong
lý luận khoa học, thì Trần Đức Thảo mê mải với hành trình phá vỡ sự ràng buộc
và từ bỏ tháp ngà ý thức để đến với cái đích thực – cái hiện hữu trong thực tiễn
sôi động, chạm vào/luận giải bản chất con người. Trong lời dạo đầu cho cuốn Hồi ký (triết học) của Trần Đức Thảo,
TS. Cù Huy Chử bình luận rằng, luận đề con người cứ âm vang mãi trong suy tư của Trần Đức
Thảo, để từ đó ông thấu hiểu “bản chất con người luôn luôn là toàn diện các
quan hệ xã hội. Phải hiểu các quan hệ ấy được hình thành từ thời khởi nguyên, cứ
tái lập mãi trong lịch sử giống loài, trong lịch sử mỗi con người mỗi đời người”[22].
Coi đó là nền tảng để con người không ngừng vươn tới Chân-Thiện-Mỹ, Trần Đức Thảo
lắng đọng, chiêm nghiệm và xuyên qua cách phân tầng xã hội con người - giai cấp,
chỉ ra tính người ở nội tâm mỗi con người – tính người tái tạo thông qua giáo dục
trong xã hội[23].
Nghiên cứu khả năng sáng tạo của con người ở
xã hội khởi thủy, sơ khai được tiếp nối qua các thời kỳ lịch sử đến ngày nay,
Trần Đức Thảo mong muốn nhìn thấu cội nguồn sự sáng tạo- cái quyết định con người
có tính tộc loại, loài người khác với loài động vật. Quan niệm con người khác
con vật ở khả năng sáng tạo và mức độ sáng tạo, Trần Đức Thảo phân tích: Xã hội
ở thời kỳ sau tiến bộ hơn xã hội ở thời kỳ trước chính là do đời sống tinh thần
con người phát triển. Không phát huy những giá trị tinh thần của con người
không thể xây dựng xã hội mang tính người, từ vật chất đến tinh thần. Và dù có
phát triển đến tầm mức nào đi chăng nữa, thì mọi thời đại đều phải lấy những
giá trị “kinh điển”, phổ quát làm cột trụ - những giá trị ấy vốn được xây dựng
từ xã hội khởi nguyên, là gốc cho mọi hoạt động sáng tạo và vươn lên của con
người.
Trên quan
điểm “thế giới hiện thực chỉ có thể là
cái thế giới phơi mở trước mắt tôi, với tất cả ý nghĩa có thể có đối với
tôi”[24], Trần Đức Thảo nhận thức đời người
luôn hàm chứa những ý nghĩa khiến con người hoàn toàn phân biệt/khác con vật; từ
đó, “ý nghĩa của cuộc sống được đặt ra như là một tuyệt đối, xuất phát từ một
hành động tự do phi lý và vô lý, làm cho con người thực tế hoàn toàn độc lập,
tích cực đối với tình hình”[25].
Nghĩa là không có bất kỳ một sản phẩm nào là của ý chí cá nhân, tất cả đều sinh
ra từ tương tác, ảnh hưởng giữa con người với con người; giữa con người với
thiên nhiên, suy cho cùng là từ thực tiễn hoạt động của con người. Cũng chính vì
thế, con người không chịu bó tay trước số phận. Con người hoàn toàn có thể cải
biến số phận, vượt qua số phận và điểm bắt đầu của quá trình cải biến ấy tương
đối đơn giản: Từ sự không thỏa mãn, không bằng lòng với hiện thực. Như vậy, con
người mà Trần Đức Thảo cổ xúy là con người hành động, là con người dám bước qua
tính quy định của điều kiện sống, bứt lên, đương đầu và cải tạo xã hội. Cũng có
thể vì điều này, giới nghiên cứu thường gọi ông là “nhà triết học” nhập thế.
Nhìn nhận,
tiếp cận con người từ góc độ giai cấp - dân tộc, Trần Đức Thảo nhận thấy “con người nguyên thủy” trong “quá trình
thành người”, một mặt, trở thành con người -giai cấp; một mặt, trở thành
con người- dân tộc. Nghĩa là Trần Đức Thảo gắn mặt giai cấp và mặt
dân tộc của con người trong mối liên hệ mật thiết không phân tách – điều khiến
nhiều người liên tưởng đến chủ nghĩa quốc gia – dân tộc. Nhiều phần vì lẽ đó mà
Trần Đức Thảo khó tránh khỏi bùn lầy nghi kỵ, khi người ta muốn “khêu” lên từ
lý luận của ông những đọt mầm dân tộc - tiểu tư sản, hoặc muốn đẩy nó lệch sang
chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, quy kết cho nó thứ “nọc độc” mà nó hoàn toàn xa lạ.
Sớm phát
hiện ra “tình trạng bóp méo phép biện chứng theo lối siêu hình”, “sự méo mó
siêu hình học áp đặt vào chủ nghĩa Marx trong thời sùng bái cá nhân”, Trần Đức
Thảo phê phán sự méo mó ấy khi vô hình trung nó “tạo thế mạnh cho một quan điểm tha hóa về con người phủ định tính phổ quát gắn
liền với tính đặc thù của con người, một quan điểm gạt bỏ những giá trị phổ cập
của con người mà chính những giá trị này là nguồn gốc sâu xa của những giá trị
tiến bộ và những giá trị giai cấp cách mạng của mỗi thời đại[26].
Như thế, lại một lần nữa ông vượt trước những người cùng thời, nhìn thấu những
mù mờ và ảo ảnh lý luận để khẳng định mạnh mẽ những giá trị người – giá trị
chung nhân loại, những giá trị làm nên cái tôi – bản ngã trong cái chung tiến bộ
toàn xã hội.
Suốt cuộc
đời hoạt động sáng tạo không mệt mỏi, cần mẫn nhả tơ, gom mật, Trần Đức Thảo
luôn tâm huyết và nỗ lực làm sáng tỏ những vấn đề xung quanh nhận thức về dân tộc
và con người - dân tộc. Ông đề cao mọi tầng lớp người đặt trong quan hệ dân tộc,
không phân biệt dưới trên, bóc lột hay bị bóc lột. Nặng lòng với quê hương, với
thân phận con người, đau đáu về tương lai dân tộc, người lữ hành cô đơn trên những
con chữ nhân sinh dùng ngòi bút và ánh sáng tinh thần lành mạnh, sâu sắc nhen
góp cho sự tiến bộ, phát triển của đất nước.
Sống qua
một thời “của
thật gọt đẽo mãi cũng thành của giả”, lặng lẽ vượt
qua gập ghềnh, bão dông, Trần Đức Thảo đã đi trọn hành trình của mình. Âm thầm
và khiêm tốn, bước qua nến và hoa, cao hơn đền đài và lăng tẩm, ông miệt mài cháy
trong miền tư tưởng, mài dũa tư duy, vắt kiệt mình cho những khát vọng một đời
đeo đuổi. Vào lúc hoàng hôn cuộc đời, trong chặng đường cuối cùng trước
khi trở về với cát bụi, Trần Đức Thảo vẫn luôn ấp ủ
tham vọng xây “lâu đài tư tưởng” - “một lâu đài của tinh thần và lý tưởng
dân chủ, của một nền công bằng xã hội chân chính, nền móng của lâu đài ấy là
công lý nghiêm minh, thắp sáng bởi đạo lý. Lâu đài ấy sẽ không chấp chứa những
gì thuộc về xảo trá, hận thù, thủ đoạn ma quỷ”[27].
Lâu đài ước vọng của Trần Đức Thảo - một cuốn sách
ông chưa kịp viết, đã được ông vĩnh viễn mang xuống tuyền đài, để lại muôn vàn
tiếc nuối cho hậu thế.
Giã từ trái đất này, Trần Đức Thảo gửi lại một sự nghiệp triết học đồ sộ, dang dở. “Hữu xạ tự nhiên hương” - cùng với thời
gian, ông đã có chỗ đứng xứng đáng
trong tâm thức người Việt cũng như trong giới triết học. Độc hành, không
có những khúc tụng ca, ông vẫn luôn hiện hữu ở đâu đó, trung thành với tuyên
ngôn tư tưởng biểu trưng cho chân giá trị cao nhất: “Lý tưởng tự do cá nhân là lý tưởng của những ngày tiến tới”[28].
[1] Giáo sư
Trần Đức Thảo sinh ngày 26-9-1917 tại Thái Bình và mất ngày 24-4-1993 tại
Paris, Thủ đô nước Cộng hòa Pháp.
[2] Dẫn theo Nguyễn Mạnh Hà: Trần Đức Thảo – triết gia dám nói lên sự
thật, Tiền phong chủ nhật, 8-4-2014.
[3] Trần Đức
Thảo, Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội, 2004, tr.139.
[4] Cù Huy Chử & Cù
Huy Song Hà: Giáo sư Trần Đức Thảo – nhà
trí thức yêu nước, nhà triết học lỗi lạc, người sáng lập chủ nghĩa duy vật biện
chứng nhân bản, TP. Hồ Chí Minh 14-09-2011.
[5] Phùng Quán: Hành trình cuối cùng của một triết gia (in trong cuốn Nhớ Phùng Quán, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2004).
[6] Tri Vũ – Phan Ngọc Khuê: Trần Đức Thảo – những lời trăn trối, Tổ hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2014.
[7] Tri Vũ – Phan Ngọc Khuê: Trần Đức Thảo – những lời trăn trối, Tlđd.
[8] Tri Vũ – Phan Ngọc Khuê: Trần Đức Thảo – những lời trăn trối, Tlđd.
[9] Tri Vũ – Phan Ngọc Khuê: Trần Đức Thảo – những lời trăn trối, Tlđd.
[10] Trần Đức Thảo: Nỗ lực phát triển tự do dân chủ, Báo Nhân văn, số 3, 15-10-1956.
[11] Trần Đức Thảo: Nội dung
xã hội và hình thức tự do, Tạp chí Giai phẩm
Mùa Đông, tháng 12-1956.
[12] Trần Đức Thảo: Nỗ lực phát triển tự do dân chủ, Tlđd.
[13] Trần Đức Thảo: Nỗ lực phát triển tự do dân chủ, Tlđd.
[14] Trần Đức
Thảo: Hồi ký, http://www viet-studies.info/TDThao.
[15] Sđd.
[16] Trần Đức Thảo: Nỗ lực phát triển tự do dân chủ, Tlđd.
[17] Trần Đức Thảo: Nỗ lực phát triển tự do dân chủ, Tlđd.
[18] GS Nguyễn
Lân: Đấu tranh vạch mặt bọn phá hoại “Nhân văn – Giai phẩm”, Báo Nhân dân, 18-5-1958, tr. 3.
[19] Encyclopedia
of Phenomenology. Dordrecht: Kluwer
Academic Publishers, 1997, p. 707.
[20] Trần Đức
Thảo: Chủ nghĩa Mác và hiện tượng học (bản dịch của Phạm Trọng Luật), http://www.viet-studies.info/TDThao.
[21] Ibib.
[22] Hồi ký (triết học) của Trần Đức Thảo, Tlđd.
[23] Trần Đức
Thảo phân định bản chất người thành bốn tầng: 1-Tầng nổi là bản tính hàng một
từ những quan hệ xã hội đương đại; 2- Tầng chìm bên dưới là bản tính hàng hai
của các thời trung cổ đại; 3- Tầng ba của thuở nguyên sơ; 4- Tận cùng dưới đáy
là tàn dư của bản tính thú vật (Trần Đức Thảo. Le Problème de l’Homme ,1992, p.24). Quan hệ xã hội quy định con người trong từng
phương thức sản xuất, kết tầng và truyền lại thông qua giáo dục.
[24] Trần
Ðức Thảo: Existentialisme et
Matérialisme Dialectique, http://www.viet-studies.org/TDThao.
[25] Ibid.
[26] Ibid.
[27] Tri Vũ – Phan Ngọc Khuê: Trần Đức Thảo – những lời trăn trối, Tlđd.
[28] Trần Đức Thảo: Nỗ lực phát triển tự do dân chủ, Tlđd.
Chào bạn,
Trả lờiXóaTrong bài này bạn trích dẫn nhiều từ cuốn "Trần Đức Thảo - Những lời trăn trối". Tôi thấy cuốn này viết không khách quan, có chủ đích tuyên truyền những tư tưởng của tác giả, nhưng lại mượn lời là của Trần Đức Thảo. Sở dĩ tôi có nghi vấn như vậy, vì tác giả Tri Vũ - Phan Ngọc Khuê là một người công chúng chưa biết đến (không rõ lai lịch). Toàn bộ nội dung cuốn sách khác hẳn với những gì các tài liệu khác viết về Trần Đức Thảo. Bạn có căn cứ gì rằng quyển sách này đáng tin cậy, mong bạn chia sẻ.