Nguyễn
Thị Mai Hoa
Sau khi cách mạng thành công (1949), Trung Quốc bước vào
một thời kỳ phát triển mới với những năm tháng khó khăn và đầy biến động. Cuộc
đấu tranh củng cố vị trí lãnh đạo trong nội bộ Đảng diễn ra gay gắt, biểu hiện
qua các chiến dịch chính trị do chính Mao Trạch Đông phát động: “Phê phán Hồ
Thích”, “chống nhóm phản cách mạng Hồ Phong”, “phê phán chủ nghĩa cơ hội hữu
khuynh” và “chống Cao Cương – Nhiêu Thấu Thạch”... Nhận thức ấu trĩ, tả khuynh
của một bộ phận các nhà lãnh đạo trong điều hành đất nước làm cho các kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc trải qua những gập ghềnh, bất ổn.
Nền kinh tế của Trung Quốc sau nhiều năm
chiến tranh trở nên đình trệ, lạc hậu, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Năm
1949, diện tích trồng trọt so với trước khi bùng nổ kháng chiến chống Nhật giảm
16%, sản lượng lương thực giảm 25%, sản xuất công nghiệp giảm 50% và hệ thống
giao thông hầu như bị tê liệt hoàn toàn[1].
Trước tình thế đó, sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, Chính phủ
Trung Quốc coi khôi phục kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, tranh thủ viện trợ của
Liên Xô để xây dựng công nghiệp. Nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô, nền công nghiệp
Trung Quốc bước đầu hình thành.
Thắng lợi của công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa và thành công của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953-1957) khiến các
nhà lãnh đạo trung Quốc mắc phải sai lầm, nôn nóng, duy ý chí trong đường lối
xây dựng chủ nghĩa xã hội, có tham vọng vươn lên trở thành một cực của thế
giới. Năm 1957, Mao Trạch Đông tin rằng, sau 10 năm, Trung Quốc có thể đuổi kịp
hoặc vượt nước Anh, còn sau 15 năm có thể vượt nước Mỹ. Sự lạc quan này dựa
trên một con tính hết sức đơn giản về sản lượng thép[2] mà
Trung Quốc có thể sản xuất khi phát động phong trào “Đại nhảy vọt”. Với tâm lý
nôn nóng đó, cuối năm 1957- đầu năm 1958, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội
của Trung Quốc được xác định là “dốc lòng hăng hái, vươn lên hàng đầu, xây dựng
chủ nghĩa xã hội nhanh, nhiều, tốt, rẻ”. Trong điều kiện kinh tế đang có những
khó khăn chưa kịp khắc phục, nửa cuối năm 1959, Đảng Cộng sản Trung Quốc lại
phát động một cuộc Đại nhảy vọt mới
với những chỉ tiêu rất cao, bất chấp điều kiện thực tế[3].
Khắp nơi tiếp tục xây dựng lò luyện thép thủ công và giương cao khẩu hiệu
“người người làm thép, nhà nhà làm thép”, quyết tâm biến cả nước Trung Quốc
thành một công xưởng thép vĩ đại, phục vụ Đại
nhảy vọt. Hậu quả của phong trào làm thép là càng làm cho kinh tế mất cân
đối trong quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp[4];
công nghiệp gang thép phát triển dị biến; mất cân đối nghiêm trọng giữa công
nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, giữa sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất hàng
tiêu dùng, giữa tích lũy và tiêu dùng. Mao Trạch Đông phải thừa nhận: “Trung
Quốc lãng phí từ 1/4 đến 1/5 số vốn bỏ ra về công nghiệp”[5] để
rút ra bài học về kinh nghiệm xây dựng các cơ sở công nghiệp nặng, “bài học đó
đã phải trả giá rất đắt, tương đương 4 tỷ Mỹ kim”[6].
Thực hiện đường lối “ba ngọn cờ hồng” (đường lối chung, đại nhảy vọt, công xã
nhân dân); đặc biệt, việc xây dựng công xã nhân dân và đại nhảy vọt làm cho
kinh tế Trung Quốc bị đảo lộn, phát triển mất cân bằng, thậm chí xảy ra nạn đói
nghiêm trọng[7]. Có thể
nói rằng, giai đoạn này, Trung Quốc có hòa bình nhưng chưa ổn định. Về chính sách đối ngoại, Cương lĩnh chung Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc (9-1949)
nêu rõ: “Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa liên hợp với tất cả các nước
và nhân dân yêu hòa bình, tự do trên thế giới, trước hết là liên hợp với Liên
Xô, các nước dân chủ nhân dân và dân tộc bị áp bức, đứng trong mặt trận dân chủ
hòa bình lâu dài của quốc tế, cùng chống lại sự
xâm lược của chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ hòa bình lâu dài của thế giới”[1].
Nhằm nhanh chóng xây dựng, phát triển kinh tế và quốc phòng, thời kỳ
đầu, Mao Trạch Đông tuyên bố “nhất biên đảo”, ngả hẳn về Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa. Tháng 12-1949, Mao Trạch Đông thăm hữu nghị Liên Xô và tháng
2-1950, hai nước ký Hiệp ước hữu nghị,
liên minh và tương trợ Trung – Xô. Mặt khác, Trung Quốc tích cực xây dựng
quan hệ với các nước láng giềng, tạo thành vành đai an ninh, giúp Trung Quốc có
môi trường hoà bình xung quanh đất nước. Mặc dầu coi Mỹ là kẻ thù số 1, nhưng
Trung Quốc vẫn tìm kiếm cơ hội cải thiện quan hệ với Mỹ và tháng 8-1955, cuộc
đàm phán Trung – Mỹ diễn ra ở Vacsava (Ba Lan), mở đầu cho con đường hoà hoãn
với Mỹ sau này. Như vậy, về đối ngoại, một
mặt, Trung Quốc tìm cách mở rộng ảnh hưởng ở châu Á, nhất là ở Nam Á và
Đông Nam Á; mặt khác, hướng tới sự
hoà hoãn với Mỹ. Cả chính sách đối nội và đối ngoại của Trung Quốc đều nhằm tới
mục tiêu củng cố thực lực quốc gia, tăng cường vị thế, tầm ảnh hưởng quốc tế,
xác lập vị trí nước lớn ở châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới. Ngay sau
khi thành lập, Trung Quốc nhanh chóng thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước
xã hội chủ nghĩa không cần thông qua đàm phán; với các nước khác, đàm phán
trước, thiết lập ngoại giao sau. Từ năm 1949 đến cuối năm 1955, Trung Quốc
thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 nước. Những năm sau đó, Trung Quốc nhanh
chóng thiết lập quan hệ ngoại giao với một loạt các nước đang phát triển như
Campuchia, Iraq, Marocco, Sudan, Uganda….
Nhằm đảm bảo an ninh để khôi phục, phát triển kinh tế và
xây dựng hình ảnh một nước Trung Quốc đứng về phía các dân tộc bị áp bức, ủng
hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, Trung Quốc tham gia cuộc chiến
tranh Triều Tiên, tích cực viện trợ cho cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt
Nam. Khi cuộc chiến tranh Triều Tiên kết thúc, với những đóng góp, hy sinh
trong cuộc chiến, Trung Quốc cho rằng vị thế quốc tế của Trung Quốc đã khác,
Trung Quốc có thể đứng vững và đang lớn mạnh; trên cơ sở đó, đặt ra nhiệm vụ
chủ yếu là ổn định và phát triển, hòa nhập vào hệ thống ngoại giao thế giới,
từng bước khẳng định vị trí nước lớn không chỉ trong khu vực, mà còn trên thế
giới. Trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng chung sống hòa bình, Trung Quốc tăng cường
phát triển quan hệ ngoại giao với các nước độc lập châu Á, châu Phi.
Từ năm 1956 đến năm 1965, hoạt động ngoại giao của Trung Quốc diễn ra sôi nổi:
Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với 27 nước, hầu hết là các nước Á -
Phi mới giành độc lập; lãnh đạo Trung Quốc đi thăm 11 nước Á – Âu (1956-1957),
13 nước Á -Phi (1963), 4 nước Đông Nam Á (1963), tích cực viện trợ cho các nước
đấu tranh giành độc lập dân tộc, mặc dù kinh tế Trung Quốc còn gặp nhiều khó
khăn. Vì thế, năm 1962, Vương Gia Tường – Cục trưởng Cục Liên lạc quốc tế của
Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh rằng, “chính sách đối ngoại của Trung Quốc
phải hướng đến mục tiêu duy trì hòa bình thế giới, để có thể tập trung xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở trong nước”[9].
Theo Vương Gia Tường, “Trung Quốc nên hòa giải với Liên Xô trước khi các cuộc
bút chiến leo thang, tuân thủ nguyên tắc chung sống hòa bình với chủ nghĩa đế
quốc, ngăn chặn một cuộc chiến tranh theo hình mẫu chiến tranh Triều Tiên ở
Đông Dương”[10]. Vương
Gia Tường “đặc biệt lo lắng về tác động của sự gia tăng mạnh mẽ viện trợ cho
nước ngoài đối với nền kinh tế Trung Quốc kể từ năm 1960”[11],
mà một phần ba trong số đó là viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[12].
Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai ủng hộ quan điểm này. Tại Hội nghị Trung ương tháng
9-1962, Mao Trạch Đông chỉ trích mạnh mẽ và gọi quan điểm của Vương Gia Tường,
Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai là “sự ủng hộ đối với chủ nghĩa xét lại” – một chính
sách đối lập với “chính sách đấu tranh chống đế quốc, xét lại và phản động ở
tất cả các quốc gia, để thúc đẩy sự phát triển cách mạng trong và ngoài nước”
mà Mao Trạch Đông theo đuổi. Thông qua đề nghị của Vương Gia Tường, chắc chắn
“vai trò của Trung Quốc ở Đông Dương sẽ bị hạn chế” – điều này là không phù hợp
với quan điểm “cách mạng vô sản trên phạm vi toàn thế giới” của Mao Trạch Đông.
Tuy nhiên, trong
những năm 1950-1959, quan hệ của Trung Quốc với một số nước lớn và nước láng
giềng có khúc mắc, xung đột: Mâu thuẫn với Liên Xô, Ấn Độ; quan hệ Trung – Mỹ
căng thẳng qua sự kiện pháo kích Kim Môn năm 1958. Trong điều kiện đó, Trung
Quốc tăng cường quan hệ với các nước đang tiến hành giải phóng dân tộc, các
nước mới giành được độc lập, các nước đang phát triển, khẳng định vai trò và ảnh hưởng đối với các nước thế giới thứ ba.
Đối với khu vực Đông Dương, khi Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược, Trung Quốc
“xem việc Mỹ can thiệp vào Đông Dương là mối nguy cơ trực tiếp đối với an ninh,
hòa bình của mình, chọn cách đối phó với Mỹ thông qua việc hỗ trợ cho chính phủ
các nước Đông Dương chống Mỹ và tìm cách thức tỉnh chủ nghĩa dân tộc ở một loạt
nước Đông Nam Á (…). An ninh quốc gia và ý thức hệ là hai yếu tố quan trọng
quyết định cách tiếp cận của Trung Quốc đối với cuộc xung đột Đông Dương”[13].
Trước chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), Mỹ nhìn thấy
nguồn gốc chủ yếu đe doạ vị trí của Mỹ ở châu Á là Liên Xô. Tháng 6-1949, Hội
đồng An ninh Mỹ xác định mục tiêu chủ yếu là ngăn chặn và làm suy giảm quyền
lực của Liên Xô ở châu Á. Song sự kiện chiến tranh Triều Tiên với sự dính lứu,
can thiệp sâu của cả Liên Xô và Trung Quốc khiến cho Mỹ bắt đầu thay đổi nhận
thức về tương quan lực lượng ở châu Á, về vai trò của Trung Quốc. Ba vấn đề
Triều Tiên, Đài Loan, Việt Nam được Mỹ đặt trong một trục quan hệ đồng đẳng –
một trục quan hệ liên quan trực tiếp và chi phối, tác động đến an ninh của Mỹ ở
vùng Đông Á - Thái Bình Dương. Cũng bắt đầu từ chiến tranh Triều Tiên, quan hệ
Mỹ - Trung trượt dài vào sự thù địch, đến mức các nhà bình luận cho rằng, nó
không bao giờ có thể trở lại điểm xuất phát ban đầu được nữa. Mỹ đặt Trung Quốc
vào hàng ngũ những địch thủ nguy hiểm nhất, một nguy cơ lan tỏa chủ nghĩa cộng
sản xuống Đông Nam Á. Tiến hành chiến tranh, Mỹ đồng thời dịch chuyển sự nguy
hiểm đến sát biên giới Trung Quốc, uy hiếp an ninh Trung Quốc từ phía Nam.
Trung Quốc lập tức nhận thấy tính toán bao vây, phong toả Trung Quốc của Mỹ, ý
đồ khôi phục Nhật Bản (một đối thủ nguy hiểm, trường kỳ uy hiếp an ninh Trung
Quốc từ hướng biển), biến nước này thành đồng minh thân thiết của Mỹ ở khu vực
– có nghĩa là tăng thêm nguy cơ và áp lực đối với Trung Quốc. Xuất hiện và dần
lộ diện sự phân cực gay gắt trong quan hệ quốc tế ở khu vực châu Á.
Sau một thời gian hòa hảo, liên minh Trung – Xô đã nảy
sinh những trục trặc, chia rẽ bởi các quyền lợi quốc gia, các quan niệm về
an ninh và cách thức mỗi nước có thể tồn tại trong môi trường quốc tế.
Trong điều kiện đó, Việc Hoa Kỳ gia tăng sự hiện diện và ồ ạt viện trợ cho
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa khiến
Trung Quốc cảm thấy bất ổn, nhất là đối với đảm bảo an ninh từ phía Nam. Trung
Quốc tin rằng "Hoa Kỳ - quốc gia đã không thành công ở Hàn Quốc và Đài Loan những năm 1950, đang mở rộng chiến tranh chống lại Trung Quốc từ hướng Việt Nam”[14].
Đến cuối năm 1963, các nhà lãnh đạo Trung Quốc rất lo lắng về ý định của Mỹ ở
Việt Nam, có kế hoạch chuẩn bị những ứng phó cần thiết. Sự lo ngại đó đặc biệt
được đẩy lên sau “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, thậm chí Trung Quốc đã lên một kế hoạch
hoàn chỉnh để chống lại “sự tấn công bất ngờ”; đồng thời, “sẵn sàng cung cấp
viện trợ đầy đủ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối đầu với Hoa Kỳ”[15].
Kinh nghiệm từ chiến tranh Triều Tiên cho Trung Quốc nhận
thức rằng: 1-. Đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng đất nước và củng cố vị thế
quốc tế là hai nội dung gắn bó mật thiết, chi phối, quy định lẫn nhau; 2- Với
vị trí và sức mạnh của mình, đến một thời điểm nhất định, Trung Quốc hoàn toàn
có thể phát huy vai trò nước lớn thông qua một giải pháp chính trị cho cuộc
chiến tranh Việt Nam; theo đó, vấn đề Đài Loan – vốn dai dẳng và bế tắc trong quan hệ tay đôi Mỹ - Trung, chắc chắn
có cơ hội đặt lên bàn nghị sự trong một nước cờ có lợi nhất. Giúp Việt Nam,
Trung Quốc tính đến việc khẳng định vị thế của mình, bước tới ghế lãnh tụ của
phong trào cách mạng thế giới, phá ý đồ của Liên Xô độc quyền nắm ngọn cờ ủng
hộ Việt Nam. Củng cố quan hệ với Việt Nam, Trung Quốc còn hướng tới sự gia tăng
ảnh hưởng của mình đối với quốc gia láng giềng nhỏ bé, đặt Việt Nam vào quỹ đạo
và vùng ảnh hưởng của mình.
Download toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC
[1] Nguyễn Huy
Quý: Lịch sử hiện đại Trung Quốc, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.18.
[2] Mao Trạch Đông tính rằng, mỗi năm nước Anh sản xuất 20 triệu tấn thép, 15
năm sau nữa có thể sản xuất năm 30 triệu tấn, còn Trung Quốc, 15 năm sau nữa có
thể là 40 triệu tấn, vì thế có thể vượt nước Anh.
[3] Đặt ra chỉ tiêu: Gá trị tổng sản phẩm công
nghiệp năm 1960 tăng 39,3% so với năm 1959, nông nghiệp tăng 12%.
[4]Từ năm 1958- 1960, công nghiệp nặng tăng trưởng 330%, trong khi nông nghiệp
giảm 22,8%.
[5] Hồ
sơ quan hệ Việt - Trung trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (3-1954 đến tháng
8-1973), Tlđd, tr. 39.
[6] Hồ
sơ quan hệ Việt - Trung trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước (3-1954 đến tháng
8-1973), Tlđd, tr. 40.
[7]Nạn đói những năm 1959-1962 đã lấy đi sinh mệnh của 37,55 triệu người dân Trung Quốc (chiếm
5,11% dân số cả nước – số liệu chính thức được giải mật theo quyết định của Bộ
Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng
9 – 2005, nhiều hơn cả số người chết trong chiến tranh thế giới thứ hai).
Trước đây, sự kiện này không được công bố. Cho đến đầu những năm 80 của thế kỷ
XX, Trung Quốc vẫn coi nguyên nhân của nạn đói là do “ba năm thiên tai”. Từ
giữa những năm 80 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã thừa nhận 35% là do thiên tai,
45% là do sai lầm trong đường lối, chính sách và quản lý.
[8] Lịch
sử ngoại giao Trung Quốc đương đại, bản
dịch, lưu tại Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng, 2010, tr. 8.
[9] Chinese Foreign Policy during the Maoist Era and its Lessons for Today,
MLM Revolutionary Study Group in the U.S, January, 2007, p.15.
[10] Chinese Foreign Policy during the Maoist Era and its Lessons for Today,
Ibid, p.15.
[11]Yang Kuisong: Changes in Mao Zedong's Attitude
toward the Indochina War, 1949-1973, Ibid,
p.21-22.
[12]Theo
số liệu Văn phòng quan hệ kinh tế quốc tế Trung Quốc, năm 1960, Trung Quốc chi 6,7 tỷ USD cho viện
trợ nước ngoài, trong đó có 2,5 tỷ USD không hoàn lại và 3,2 tỷ USD cho vay với
lãi suất thấp; trong đó, 1/3 số lượng (tương đương với 1,9 tỷ USD) là viện trợ cho Việt Nam; 133
triệu USD viện trợ cho Campuchia; 670.000 USD viện trợ cho Lào. Tính chung, từ
năm 1950 đến năm 1960, trung bình hàng năm Trung Quốc phân bổ 1,18% tổng chi
tiêu tài chính hàng năm cho viện trợ nước ngoài (Nguồn: The Foreign Economic Liaison Bureau’s report
on foreign assistance and future tasks, 1 September 1961).
[14] Xiaoming Zhang: “The
Vietnam War, 1964-1969: A Chinese Perspective”, The Journal of Military History, Vol. 60, No. 4 (Oct., 1996), p.
734.
[15]Qiang Zhai: Beijing and the Vietnam Conflict, 1964-1965: New Chinese
Evidence, Cold
War International History Project, Wilson
Center,
p. 6
đọc cuốn "Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc 30 năm qua" ổn không cô :))
Trả lờiXóa